lundi 23 mars 2015

THỜI SỰ : Kế hoạch đốn hạ 6.700 cây xanh ở TP Hà Nội


Trương Thanh Long
Sưu tầm - Biên soạn - Bình Luận


Kế hoạch đốn hạ 6.700 cây xanh ở TP Hà Nội được đưa tin trên nhiều báo Việt Nam và nước ngoài như DailyMail, The Sun Daily và cả trang thông tấn Reuters.

Hà Nội đình chỉ hàng loạt cán bộ liên quan vụ chặt cây

Ai là người chỉ đạo thảm sát cây xanh Hà Nội?

Theo báo kienthuc.net.vn cập nhật vào ngày 21 tháng 3 năm 2015 đã viết như sau :

Chính quyền các cấp của thành phố Hà Nội từ xưa đến nay vẫn nổi tiếng là trì trệ, chậm chạp và độ chuyên nghiệp, năng động thì thua xa các thành phố khác như Đà Nẵng, TP Hồ Chí Minh, Hải Phòng… Bộ máy làm việc của các cấp chính quyền Hà Nội cực kỳ quan liêu, mang nặng tư duy thời bao cấp và đối với dân thì luôn "hành là… chính"!

Tuy nhiên, trong vụ "thảm sát" cây xanh có tổ chức này, thì các cơ quan chức năng liên quan đến "dự án thay cũ đổi mới cây xanh" lại thể hiện một động thái nhanh, quyết liệt, mạnh mẽ và cả… âm thầm.

Chỉ trong một thời gian ngắn mà lực lượng chỉnh trang đô thị đã “chặt phăng” khoảng 2.000 cây, trong đó có rất nhiều cây cổ thụ, cây có giá trị.

Lực lượng này làm việc nhiệt tình chưa từng thấy, làm việc cả ngày lẫn đêm, làm việc dưới áp lực cao (trong tình trạng vừa làm vừa nghe dân chửi).

Điều này cho thấy các lực lượng chỉnh trang đô thị của thành phố cũng “không phải hạng vừa”. Chỉ có điều lâu nay chưa có cơ hội thể hiện!

Vụ chặt 6.700 cây xanh nếu không bị người dân và dư luận chặn lại thì có thể coi là một cuộc “thảm sát” cây chưa từng thấy ở các thành phố lớn. Tuy nhiên, chỉ riêng việc đã chặt phăng 2.000 gốc cây cũng đủ đưa Hà Nội lên “đầu bảng” trong việc chặt phá cây xanh trong cả nước.

Trong buổi họp báo chiều ngày 20/3/2015, Phó chủ tịch UBND TP Hà Nội Nguyễn Quốc Hùng đã thông báo việc ngừng chặt phá cây xanh nhưng lại né tránh tất cả các câu hỏi liên quan đến việc quy trách nhiệm. Lúc này, các cơ quan báo chí mới lôi ra thông tin là chính quyền thành phố chịu “sức ép” từ các nhà tài trợ nên phải khẩn trương làm.

Qua sự khẩn trương và mạnh mẽ lần này, người dân cứ thầm ước ao: Giá mà từ trước đến nay, “các anh ấy” cũng chịu khó thế này thì bộ mặt đô thị Hà Nội đâu có đến nỗi “nguệch ngoạc” như bây giờ.­!

Ai la nguoi chi dao tham sat cay xanh Ha Noi

Người ta không thể không đặt dấu hỏi là tại sao họ lại thảm sát cây "thần tốc" đến vậy. Và trong vụ thay cây này, ai sẽ là người … bán được lắm cây nhất?

Cây xanh, nếu là cây trong vườn nhà anh, thì chặt hạ thế nào là tùy. Nhưng cây trong ngoài đường, bằng tiền thuế của dân từ bao đời nay, là bóng mát, là giữ môi trường, là tạo cảnh quan… thì muốn làm gì cũng phải suy nghĩ, nghiên cứu cho thấu đáo.

Còn như cái ông quan chức nào đó, mở miệng ra bảo "chính quyền làm không cần phải hỏi dân", thì cũng nên cho ông này đi nơi khác. Sao lại có thứ quan chức ăn nói hồ đồ đến vậy?

Có rất nhiều khuất tất trong vụ chặt hạ cây xanh này. Chúng ta hoan nghênh tinh thần thẳng thắn của Chủ tịch UBND TP Hà Nội Nguyễn Thế Thảo, và rất mong ông Chủ tịch cho điều tra làm rõ trách nhiệm của những tập thể, cá nhân trong vụ " thảm sát" cây này.

Điều người dân muốn được biết một cách minh bạch là: Ai là người ký duyệt cho vụ thảm sát cây này? Trước đó, đã có nghiên cứu khoa học nào về việc thay cây này chưa? Một việc lớn đến như vậy mà tới Chủ tịch còn không biết, vậy phải chăng Phó Chủ tịch đã lộng quyền? Số tiền phải bỏ ra thay cây là bao nhiêu? Và số cây này được mua từ đâu? Và cuối cùng là số gỗ của 6.700 cây (nếu được chặt sạch theo đúng kế hoạch) thì sẽ sử dụng thế nào? Bán cho ai?

Và trước những hậu quả đã trông thấy, phải coi đây là một cuộc "phá hoại tài sản, phá hoại môi trường có tổ chức".


Chi phí chặt, đào gốc một cây xà cừ lên đến 35 triệu đồng

Không tính tiền vận chuyển, công đào một gốc cây xà cừ đường kính 120 cm là 10 triệu đồng, công cưa chặt là 25 triệu đồng.

Theo báo vtc.vn cập nhật vào ngày 23 tháng 3 năm 2015 đã viết như sau :

Theo đơn giá thanh toán sản phẩm dịch vụ công ích đô thị năm 2015 cho lĩnh vực duy trì công viên cây xanh, được áp dụng từ ngày 1/1/2015, các chi phí cho việc cắt tỉa cây, giải tỏa cây đổ, chặt hạ, đào gốc cây xà cừ có đường kính trên 120 cm đều ở mức trên 10 triệu đồng.

Cụ thể, để chặt hạ một cây xà cừ có đường kính trên 120 cm, ngân sách thành phố sẽ chi 25 triệu đồng tiền chặt, 10 triệu đồng tiền đào gốc. Cũng với đường kính như trên, nếu chỉ cắt tỉa không sử dụng xe nâng thì chi phí là 13,3 triệu và trường hợp giải toả cây gãy đổ là trên 10 triệu đồng.

Theo đơn giá của Hà Nội, việc đào gốc xà cừ có đường kính 120 cm 
được tính phí 10 triệu đồng. Ảnh: Quý Đoàn.

Tại cuộc họp cuối tháng 1 của Sở Xây dựng Hà Nội về việc chặt hạ cây xanh trên tuyến đường Nguyễn Trãi - Trần Phú để phục vụ thi công đường sắt trên cao Cát Linh - Hà Đông, đại diện Sở Xây dựng, Công ty TNHH MTV công viên cây xanh khẳng định quy trình chặt hạ, đo đếm củi gỗ, đấu giá rất chặt chẽ và không có thất thoát.

Khi được hỏi về quy trình, giá một mét khối củi gỗ, ông Trần Trọng Hiếu, Trưởng phòng quản lý Hạ tầng, môi trường và công trình ngầm (Sở Xây dựng) cho hay việc thu hồi củi gỗ cây bóng mát sau khi chặt hạ được liên ngành kiểm tra, sau đó trừ vào quyết toán. “Quy định của nhà nước là chặt chẽ, chắc chắn không có thất thoát”, ông Hiếu nhấn mạnh.

Phó tổng Giám đốc Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Công viên cây xanh Hà Nội Nguyễn Xuân Hưng cho biết, về nguyên tắc cây xà cừ cao bao nhiêu, đường kính thế nào thì sẽ tương ứng bao nhiêu mét khối gỗ. Công ty có 3 bộ phận liên quan phối hợp đo đếm tại hiện trường về số lượng, dài rộng đường kính, đoạn nào sâu, không sâu… sau đó mới đưa ra thống nhất.

Theo ghi nhận của PV VTC News, nhiều cây xà cừ
có đường kính hơn 1 mét, không bị sâu mục.

Ông Phó tổng giám đốc công ty cây xanh cho hay, củi gỗ thu hồi công ty không được tổ chức đấu thầu. Giá trị một mét khối gỗ tùy theo từng thời điểm trung tâm thẩm định giá Sở Tài chính đưa ra. “Sau một quý, thường là 3 tháng. 

Công ty báo cáo Sở Tài chính, Sở giới thiệu một công ty đấu thầu, công ty này đứng ra tổ chức thông báo các tổ chức, cá nhân muốn mua củi gỗ đến đấu thầu. Tiền đấu thầu thu được sau đó nộp vào ngân sách”, ông Hưng nói về quá trình bán củi gỗ sau khi bị chặt hạ.

Thống kê của Sở Xây dựng, cây xanh Hà Nội được trồng trên 500 tuyến phố với hơn 100 loài trong đó 25 loài có số lượng lớn như xà cừ (5.000 cây), muồng (5.500), bằng lăng (5.500), sấu (2.200)... Theo Sở Xây dựng Hà Nội, từ đầu năm đến nay, đã có 500 cây các loại bị chặt hạ.


Báo quốc tế đồng loạt đăng vụ chặt 6700 cây xanh Hà Nội

Theo báo kienthuc.net.vn cập nhật vào ngày 21 tháng 3 năm 2015 đã viết như sau :

Kế hoạch đốn hạ 6.700 cây xanh của TP Hà Nội được đưa tin trên nhiều báo nước ngoài như DailyMail, The Sun Daily và cả trang thông tấn Reuters.

Giới truyền thông nước ngoài đã đồng loạt đưa tin về việc thành phố Hà Nội hoãn kế hoạch đốn dỡ hàng nghìn cây xanh vào hôm 20/3/2015 sau khi kế hoạch này gây bất bình cho dư luận vì lo ngại có thể ảnh hưởng đến cảnh quan đô thị.

Báo quóc té dòng loạt dang vụ chat 6700 cay xanh HN

Trang Daily Mail dẫn lại từ trang thông tấn Reuters về kế hoạch
đốn hạ 6.700 cây xanh tại Hà Nội. 

Cụ thể, trang thông tấn Reuters đã đưa tin về kế hoạch này, sau đó được trang The Daily Mail dẫn lại với tiêu đề: “Thủ đô Việt Nam đảo ngược kế hoạch chặt đốn cây do phản đối của người dân”.

Tin này cho hay: tuần này, các phương tiện truyền thông xã hội đã đi vào chỉ trích khi thành phố bắt tay vào chặt 500 trong tổng số 6.700 cây xanh trong thành phố được mệnh danh là “Paris của châu Á”. Tin tức về việc UBND thành phố Hà Nội hoãn lại kế hoạch này đã trở thành bản tin nóng trên các phương tiện vào trưa 20/3/2015.

“Chủ tịch Nguyễn Thế Thảo đã yêu cầu Sở Xây dựng Hà Nội cũng như các sở ban ngành ngừng việc đốn hạ cây,” theo đài truyền hình VTV thông báo.

Báo quóc té dòng loạt dang vụ chat 6700 cay xanh HN-Hinh-2

Trang The Sun Daily của Mỹ cũng đăng tin về kế hoạch chặt hạ cây xanh của Hà Nội.

Trước đó, tờ The Sun Daily của Mỹ cũng đăng tin về kế hoạch chặt 6.700 cây xanh tại Hà Nội vấp phải sự phản đối của công chúng vào thứ 5 (19/3/2015).

Tờ báo còn nhắc đến trang Facebook có tên “6.700 người vì 6.700 cây xanh” được lập ra nhằm mục đích phản đối kế hoạch này. Trang Facebook trên đã nhận được 23.000 lượt thích chỉ trong 3 ngày.

Chủ tịch UBND Thành phố Hà Nội đã xem xét lại kế hoạch xây dựng sau khi dư luận có nhiều phản ứng tiêu cực. Nhiều ý kiến cho rằng điều này gây lãng phí và ảnh hưởng đến màu xanh của thành phố. Trong khi đó, có ít nhất 500 cây xanh trên đường phố thủ đô Hà Nội đã bị đốn hạ.


Đề án chặt hạ 6.700 cây xanh: Đừng chỉ thanh tra ra những “con kiến”

Băn khoăn về đề án chặt hạ 6.700 cây xanh ở Hà Nội, nguyên Phó Chủ tịch UBND TP Hà Nội Phạm Sỹ Liêm đánh giá vụ việc còn ẩn chứa nhiều điều không ổn. “Mong rằng việc thanh tra mà Hà Nội đang triển khai đừng chỉ tìm ra những con kiến”.

Theo báo dantri.com.vn cập nhật vào ngày 23 tháng 3 năm 2015 đã viết như sau :

Chiều nay 23/3, hội thảo “Từ đề án 6.700 nhìn lại quy hoạch cây xanh Hà Nội” đã được Trung tâm Con người và Thiên nhiên phối hợp với Trung tâm Truyền thông Giáo dục Cộng đồng thuộc Liên hiệp các hội khoa học kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) tổ chức.

“Chưa hiểu hết về chức năng của cây xanh”



 Nguyên Phó Chủ tịch UBND TP Hà Nội Phạm Sỹ Liêm ví đề án
6.700 cây xanh như một cuộc "thảm sát Mỹ Lai với cây cối"

Theo TS. Phạm Sỹ Liêm - Phó Chủ tịch Tổng hội Xây dựng Việt Nam (nguyên Phó Chủ tịch UBND TP Hà Nội) - qua đề án 6.700 cây xanh và những phát biểu của lãnh đạo các đơn vị liên quan vừa qua cho thấy “họ chưa hiểu hết về chức năng của cây xanh đô thị, tác dụng và tác hại của nó”.

“Cây cối như một người bạn với con người, cùng sinh ra và lớn lên. Thế mà cùng được 40-50 tuổi rồi mà chặt hàng loạt cây xanh như thế... Cây cối còn như một chứng nhân lịch sử, qua thời gian biết được nhiêu chuyện, ghi được nhiều chuyện. Thế giới người ta chỉ cần lấy một mẫu khảo cổ thì đã có thể đọc vanh vách thời đó như thế nào rồi cơ mà”- TS Liêm phân tích.

Chưa hết, nguyên Phó Chủ tịch UBND TP Hà Nội Phạm Sỹ Liêm còn rất băn khoăn về việc Hà Nội phê duyệt cho một loạt đơn vị không hề có liên quan, chuyên môn nào về trồng cây xanh như Công ty tư vấn xây dựng đầu tư Hà Thành, Công tyTNHH MTV Cơ điện công trình, Công ty CP Công nghệ thương mại Bình Minh.

“Tôi nghe nói một cây sấu như thế đã có giá tới 30 triệu đồng rồi, nhẩm tính sơ sơ số tiền họ đốn hạ mang bán thì cũng được rất nhiều tiền rồi. Nhưng lại mua một cây mới trồng vào đấy, lại tốn bao nhiêu tiền nữa. Chặt cây cũ, trồng cây mới thì gọi là tài trợ, không lấy tiền nhà nước ư? Nghe chừng không ổn. Những cái này diễn ra, chúng ta không nên ngây thơ quá về sự vụng về, thiếu hiểu biết, hay kém kinh nghiệm. Đều có sự đo đếm hết, không phải tự nhiên mà như vậy đâu. Tôi mong rằng việc thanh tra mà Hà Nội đang triển khai đừng chỉ tìm ra những con kiến”- ông Liêm thẳng thắn.

“Cây cũng như người, bị bệnh phải chữa chứ không thể đem chôn”

GS.TSKH Phạm Ngọc Đăng - Phó Chủ tịch Hội bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam - cho biết trước đây ông từng được mời tham tham gia vào đề án đánh giá tác động môi trường cho dự án đường sắt đô thị Cát Linh - Hà Đông.

“Trong đề án đó không hề nhắc tới việc phải chặt hạ hàng cây xà cừ dọc hai bên đường Nguyễn Trãi”- ông Đăng công bố thông tin gây sốc.

Theo ông Đăng, khi thi công tuyến đường sắt đô thị Cát Linh - Hà Đông, nếu thấy không chặt cây hàng cây dọc đường Nguyễn Trãi sẽ không thể thi công được thì phải thành lập hội đồng đánh giá, lập hồ sơ và gửi tới Bộ Tài nguyên- Môi trường thẩm định; được phê duyệt thì mới được thực hiện.

Trong khi đó, luật sư Trần Vũ Hải (Công ty Luật Hà Nội) khẳng định: Luật Thủ đô do chính Hà Nội đề xuất, xây dựng để rồi Quốc hội thông qua đã có điều khoản cấm chặt phá cây xanh, trừ trường hợp bất khả kháng.

“Chúng tôi nghiên cứu thì thấy việc chặt phá cây xanh vừa qua còn không cấp phép. Họ chỉ sử dụng toàn công văn để chỉ đạo. Từ đầu tới cuối, họ không làm theo luật lệ nào cả. Tôi nghiên cứu mãi các văn bản liên quan mà không biết họ áp dụng theo luật nào”- luật sư Hải nói.

GS. Nguyễn Lân Dũng - Chủ tịch Hội các ngành sinh học Việt Nam - nói rằng việc cây xanh bị bệnh là chuyện hết sức bình thường, vấn đề là cứu hay không cứu.

“Cây cũng như con người, bị bệnh thì phải cứu chữa, chứ không thể đem chôn ngay được. Tôi đi nhiều nước trên thế giới thấy họ cũng luôn tìm mọi cách để cứu cây, chứ không phải cứ thấy câu sâu bệnh là chặt hạ ngay”- GS. Dũng nói.

“Tôi có may mắn đi được 30 thủ đô các nước, không có thủ đô nào như ở Hà Nội ta. Khi mở rộng Thủ đô Hà Nội tôi đã trình bày và ngạc nhiên vì Thủ đô mình lớn thứ 3 trên thế giới chỉ sau Bắc Kinh (Trung Quốc) và Tokyo (Nhật Bản). Thủ đô của ta quá lớn, so với các nước quá đẹp vì hồ và cây. Chúng ta thấy nhiều thủ đô hoành tráng, nhưng cây xanh thì thua chúng ta. Nhưng hồ thì chúng ta biết rồi, chúng ta đã mất rất nhiều hồ. Trước đây làm gì có chuyện ngập lụt đâu, thế mà giờ đã có việc ngập nước tới bụng, ngập cả xe đạp. Đau đớn lắm rồi, nhưng giờ lại tính chặt tới 6.700 cây xanh, tức là 1/7 tổng số cây ở Hà Nội. Tôi thử tưởng tượng rằng nếu đầu tôi rụng mất 1/7 tóc đi thì thành cái đầu hói mất rồi”- GS. Nguyễn Lân Dũng đưa ra hình ảnh so sánh.

TS. Phó Đức Tùng - nguyên Chủ nhiệm bộ môn Lâm nghiệp đô thị (Đại học Lâm nghiệp) - đặt câu hỏi: “Tại sao những cây xanh ở Hà Nội yếu, bệnh tật? Đó là vì Hà Nội chưa bao giờ trồng cây đường phố đúng kỹ thuật cả. Trồng cây đô thị khác hẳn với các loại cây ở nông thôn, đồi núi, không phải cứ khoét khoét đất lên rồi trồng cây xuống như thế được. Nếu trồng như thế thì cây mới không thể có khả năng phát triển bằng một cây cũ được. Với điều kiện trồng, chăm sóc như thế thì một số cây vô giá trị như Hà Nội nói (cây nông, dâu da xoan, gòn,…) cũng có giá trị; không loại cây nào có thể sống được ngoài những cây vô giá trị ấy. Tương tự như việc không thể diệt hết cá rô phi trên sông Tô Lịch để thả vào đó những con cá chép rồng đắt giá được”.

Đã chặt 500 cây, 1.000 hay 2.000 cây?

GS Nguyễn Lân Dũng nói thêm: “Con đường từ Ngã Tư Sở vào Hà Đông dài hơn 11 km nhưng nói như GS. Đăng thì không nằm trong quy hoạch của tuyến đường đó, không cần phải chặt hạ khi triển khai dự án đường sắt đô thị. Thế thì càng phải thanh tra, làm rõ việc này. Nghệ sĩ Chiều Xuân đã phải khóc để kiên quyết giữ cây xanh trước cửa nhà trên đường Nguyễn Thái Học, rồi bao nhiêu văn nghệ sĩ đã lên tiếng, bao nhiêu bài vè, bài thơ đau đớn về chuyện này. Tôi cho rằng phải đặt ra chuyện truy cứu trách nhiệm của những người đề xuất chủ trương này, chứ không thể dừng lại kiểm điểm, ngừng công tác để kiểm điểm được”.

GS. Nguyễn Lân Dũng cho biết lãnh đạo Hà Nội nói rằng đã chặt hạ 500 cây nhưng ông lại nghe được thông tin nói rằng đã có hơn 1.000 cây bị chặt.



Hà Nội nói đã có 500 cây bị chặt hạ
nhưng các chuyên gia, nhà khoa học không tin con số này. 

Trong khi đó, luật sư Trần Vũ Hải nhẩm tính: Đường Nguyễn Chí Thanh đã chặt hạ gần 400 cây, đường Nguyễn Trãi 500 cây là thành 900 cây rồi nên con số Hà Nội đưa ra rất đáng ngờ.

“Tôi có người bạn đã đi lòng vòng qua nhiều tuyến phố và thấy phố nào cũng có gốc cây bị chặt hạ. Người bạn này đã nhẩm tính phải có khoảng 2.000 cây bị chặt hạ rồi chứ không thể là 500 cây được. Tàu điện trên cao đường Nguyễn Trãi mấy năm nữa mới xong mà các anh ấy đã chặt hết sạch, trước cả kế hoạch. Về mặt luật pháp hoàn toàn không thấy cơ sở pháp lý nào cả. Chính vì thế việc thanh tra của Hà Nội phải có sự tham gia của nhiều tổ chức, đoàn thể để giám sát thì mới minh bạch được”- ông Hải nói.

GS. Nguyễn Lân Dũng đề nghị việc thanh tra chuyện chặt cây ở Hà Nội phải để Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo, vì đến nay truyền thông các nước lớn trên thế giới đều đã lên tiếng cả rồi nên không thể để Hà Nội thanh tra.

Cây trên đường Nguyễn Chí Thanh là cây mỡ, không phải vàng tâm

TS. Nguyễn Tiến Hiệp - Trung tâm Bảo tồn Thực vật Việt Nam - cho biết đã lấy mẫu cây trồng trên đường Nguyễn Chí Thanh đem về nghiên cứu.



TS. Nguyễn Tiến Hiệp (đứng) khẳng định cây trồng trên
đường Nguyễn Chí Thanh là cây mỡ chứ không phải vàng tâm.

“Chắc chắn đó là cây mỡ chứ không phải cây vàng tâm. Mà là cây mỡ bình thường, gỗ không tốt đâu, nó là nguyên liệu trồng để làm giấy ở vùng Tuyên Quang, Yên Bái, đường kính 20cm đã cưa rồi. Bộ lá của nó thưa, nó không thể thích hợp ở đây được. Tôi dự đoán khả năng chết rất cao, bởi điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu không phù hợp. Hà Nội có lúc nắng nóng tới 40-45 độ thì khả năng chết rất cao”- ông Hiệp nói.

GS. Nguyễn Lân Dũng bình luận thêm: “Anh Hiệp là chuyên gia trong lĩnh vực này thì nói chính xác rồi. Tôi thì cho rằng 10 năm nữa nó cũng chắc chắn không có bóng mát đâu, bởi cành nó bằng ngón tay thôi. Chúng ta không nên quan tâm hàng cây trồng trên đường Nguyễn Chí Thanh là cây vàng tâm hay mỡ, bởi cả 2 loại cây này đều không phù hợp để làm cây xanh ở Hà Nội. Ở đây không phải đất chua, không có chất mùn và nhiệt độ cao thì làm sao có thể trồng được 2 loại cây đó chứ”.


Một trong những đường đẹp nhất Việt Nam trước và sau khi chặt cây

Theo báo news.zing.vn cập nhật vào ngày 23 tháng 3 năm 2015 đã viết như sau :

Nhìn từ trên cao, đường Nguyễn Chí Thanh, con đường từng được bình chọn đẹp nhất Việt Nam, nay trơ trụi, không còn màu xanh đầy sức sống như trước.

 

 
 Nguyễn Chí Thanh từng được bình chọn là tuyến đường đẹp nhất Việt Nam trong một cuộc thi do Bộ Giao thông vận tải tổ chức. Tuy nhiên, những hình ảnh và ký ức đẹp đẽ về con đường này sẽ chỉ còn là hoài niệm.

 

 

 

 


THẾ GIỚI : Hơn 10.000 người Pháp ký tên phản đối chính phủ chặt cây

Theo báo tuoitre.vn cập nhật vào ngày 22 tháng 3 năm 2015 đã viết như sau :

Hơn 10.000 người Pháp đã ký vào hai bản kiến nghị phản đối việc chính phủ lên kế hoạch chặt bỏ cây xanh nằm quá gần đường quốc lộ để ngăn chặn nguy cơ tai nạn giao thông.

Một đường có hai hàng cây ở vùng nông thôn Pháp - Ảnh: Telegraph

Theo báo Telegraph, nhà chức trách Pháp cho biết cây cối nằm sát đường quốc lộ ở các vùng nông thôn là nguyên nhân gây tai nạn giao thông. Ước tính mỗi năm có 400 người ở Pháp chết vì đâm xe vào cây.

“Trên những con đường có hàng cây, một sai lầm nhỏ cũng có thể dẫn đến tai nạn chết người” - ông Chantal Perrichon thuộc Hội đồng An toàn đường bộ quốc gia khẳng định.

Mới đây Bộ trưởng Nội vụ Pháp Bernard Cazeneuve yêu cầu chính quyền các địa phương lên danh sách các con đường có hàng cây để xử lý. Trên thực tế, luật Pháp cấm trồng cây cách đường 1,5m và thời gian qua nhà chức trách đã chặt hàng ngàn cây trồng quá gần đường.

Tuy nhiên kế hoạch mới của Bộ Nội vụ có thể khiến nhiều ngàn cây bị chặt bỏ. Và đã có hơn 10.000 người ký vào đơn kiến nghị phản đối kế hoạch này. Họ cho rằng cây xanh đóng vai trò sinh thái quá quan trọng và trên thực tế giúp giảm tai nạn giao thông.

“Cây xanh đóng vai trò thiết yếu đối với sức khỏe người dân” - ông Georges Cingal, thành viên Ủy ban Môi trường và xã hội châu Âu (CESE), người viết một trong hai đơn kiến nghị, khẳng định. Ông cho biết theo một nghiên cứu của Anh, các hàng cây có thể giúp người lái xe xác định tốc độ, phát hiện các điểm đường cong…

Chuyên gia giao thông Chantal Pradines của Hội đồng châu Âu cho rằng cây xanh trên đường quốc lộ ở Pháp đã đạt đến độ tuổi không thể thay thế và có tầm quan trọng lớn về môi trường sinh thái, do đó không thể chặt bỏ.


Bình luận

Cây xanh có ý nghĩa vô cùng quan trong như hấp thụ khí CO2 và thở ra oxy cho con người. Vì vậy, việc chặt hạ hàng ngàn cây xanh, làm mất đi thảm xanh của thiên nhiên, chắc chắn sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến con người, nhiệt độ, nhất là trong bối cảnh biến đổi khí hậu đang diễn biến phức tạp và ô nhiễm không khí đang ngày nhức nhối hơn.

Đối với Hà Nội, từ trước đã được cộng đồng thế giới biết đến là thành phố xanh với nhiều dãy cây cổ thụ được trồng cách đây cả trăm năm. Chính các cây xanh này cũng đã góp phần tạo nên một Hà Nội thanh lịch, hài hòa giữa thiên nhiên và môi trường.

Một điều nữa chúng ta cần phải nghĩ là, nếu việc chặt cây chúng ta làm không tốt có thể sẽ ảnh hưởng đến việc giáo dục. Bởi từ nhiều năm nay, Nhà nước đã có chủ trương kêu gọi toàn dân trồng cây, trồng rừng. Chủ trương này cũng đã được đưa vào giáo dục trong các trường học nhằm hướng tới mục đích bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu.

Như Trung Quốc, thời gian qua ô nhiễm không khí, khói bụi đang ảnh hưởng rất lớn đên cuộc sống của người dân. Trước thực trạng này, Trung Quốc đã kêu gọi nhân dân trồng rừng, trồng cây để giảm ô nhiễm. Việc này cho thấy, cây xanh rất có ý nghĩa đối với cuộc sống. Đây là một bài học mà chúng ta cần phải ghi nhận và rút kinh nghiệm trước khi nghĩ đến việc đánh đổi cây xanh./.





vendredi 20 mars 2015

BLOG : Cuộc đời của 4 đại gia Sài Gòn thời xưa


Trương Thanh Long
Sưu tầm - Biên soạn - Bình Luận


Vào cuối thế kỷ 19, Sài Gòn - Chợ Lớn nổi lên bốn vị phú hộ có gia sản kếch xù, được mệnh danh là "Tứ đại phú hộ" mà tiếng tăm còn truyền lại đến bây giờ qua câu nói dân gian "Nhất Sỹ, Nhì Phương, Tam Xường, Tứ Định" (Huyện Sỹ - Tổng đốc Phương - Bá hộ Xường và Bá hộ Định)


Huyện Sỹ - Lê Phát Đạt: Giàu hơn vua Bảo Đại

Nhất Sỹ tên thật là Lê Phát Đạt (1841-1900) được phong huyện hàm nên gọi là Huyện Sỹ, một trong những người giàu nhất Sài Gòn vào nửa đầu thế kỷ 20. Cháu ngoại ông là Nguyễn Hữu Thị Lan, vợ vua Bảo Đại, tức Nam Phương Hoàng Hậu.

Nhân vật số một của Tứ đại phú hộ là Huyện Sỹ, người có tên khai sinh là Lê Nhứt Sỹ, sinh ra tại Sài Gòn trong một gia đình theo đạo Công giáo. Từ nhỏ ông đã được các tu sỹ người Pháp đưa đi du học ở Malaysia. Tại đây, ông đổi tên thành Lê Phát Đạt do tên cũ của ông trùng với tên một người thầy dạy.

Sau khi về nước, ông được Chính phủ Pháp bổ nhiệm làm thông ngôn, từ năm 1880 làm Ủy viên Hội đồng Quản hạt Nam Kỳ. Dù đã đổi tên nhưng người quen vẫn gọi ông bằng tên cúng cơm, vì vậy mà cái tên Huyện Sỹ đã gắn bó với số phận của ông. Sự giàu có nhanh chóng của Huyện Sỹ - Lê Phát Đạt bắt đầu từ một việc trớ trêu. Khi người Pháp chiếm Nam Kỳ, dân cư tản mát, nhiều ruộng đất trở nên vô chủ, bán rẻ mạt mà không ai mua. Chính quyền thuộc địa ép Lê Phát Đạt, khiến ông bất đắc dĩ phải đi vay mượn mà mua liều. Không ngờ ruộng của ông trúng mùa liên tiếp mấy năm liền, khiến ông bỗng chốc phát tài. Dù nhiều tiền của nhưng ông không tiêu xài phung phí mà còn dạy người nhà thói cần kiệm.

Nhà thờ huyện Sỹ ở HCM.jpg
Nhà thờ Huyện Sỹ là một nhà thờ Công giáo cổ,
tọa lạc tại số 1 đường Tôn Thất Tùng, quận 1

Là người mộ đạo, ông đã dùng gia sản khổng lồ của mình để xây các nhà thờ bề thế ở Sài Gòn, là nhà thờ Huyện Sỹnhà thờ Chí Hòa ngày nay. Người con trai của ông là kỹ sư Lê Phát Thanh cũng bỏ tiền ra xây nhà thờ Hạnh Thông Tây, nay thuộc quận Gò Vấp.

Các con cái của Huyện Sỹ đều là những đại điền chủ sở hữu vô số đất đai ở Nam Kỳ lục tỉnh, nhận nhiều bổng lộc từ triều đình nhà Nguyễn dù không phải người hoàng tộc. Sau này, một người cháu ngoại của Huyện Sỹ là Nguyễn Hữu Thị Lan đã trở thành hôn thê của vua Bảo Đại, được biết đến với danh xưng Nam Phương hoàng hậu. Mức độ giàu có của gia tộc Huyện Sỹ được đồn thổi là lớn hơn rất nhiều lần so với vua Bảo Đại.

Sự giàu có của Huyện Sỹ ngày nay còn được thể hiện một cách rõ nét qua các công trình xây dựng mà ông để lại. Nổi bật số đó là nhà thờ Huyện Sỹ, công trình mà ông đã hiến 1/7 tài sản cá nhân để xây dựng. Nhà được khởi công xây dựng từ năm 1902 và đến năm 1905 hoàn thành theo thiết kế của linh mục Bouttier, tiêu tốn khoảng 30 ngàn đồng bạc Đông Dương thời bấy giờ.

Huyện Sỹ - Lê Phát Đạt qua đời năm 1900, trước khi ngôi nhà thờ tâm huyết của ông được xây dựng. Sau khi vợ của ông là bà Huỳnh Thị Tài mất năm 1920, con cháu đã đưa thi hài hai ông bà về chôn ở gian chái sau cung thánh của nhà thờ Huyện Sỹ. Nơi đây cũng đặt tượng của ông cùng vợ và các con. Ngày nay, nhà thờ Huyện Sỹ là một điểm đến thu hút khách du lịch, đặc biệt là đối với những ai muốn tìm hiểu về cuộc đời của đại gia giàu có bậc nhất Sài Gòn thời xưa.

Nhà thờ Hạnh Thông Tây - 53/7 Quang Trung, Q.Gò Vấp

Trước đây có một con đường ở phường 7, quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh mang tên Lê Phát Đạt, gần nhà thờ Chí Hòa. Khoảng năm 2000, con đường này đổi tên thành đường Đặng Lộ.


Tổng đốc Phương - Đỗ Hữu Phương: Tiến thân nhờ theo Pháp

Nhì Phương là Đỗ Hữu Phương  sinh cuối tháng 6 năm 1841 tại Chợ Đũi (Sài Gòn) được phong hàm Tổng đốc nên còn gọi là Tổng đốc Phương, người gốc Hoa sinh tại Sài Gòn, ngoài chữ Hán ông còn nói giỏi tiếng Việt, nói được một ít tiếng Pháp.

Cha ông là một người giàu có, tục gọi là Bá hộ Khiêm. Ông này đã cưới con gái một vị quan người Quảng Nam vào Nam Kỳ làm Tri phủ (sau về hưu với chức Lang trung bộ Binh) và sinh ra ông.

Đỗ Hữu Phương (1841 - 1914), nhân vật số hai trong “Tứ đại phú hộ” sinh tại Sài Gòn, là con của Bá hộ Khiêm – một người giàu có của đất Nam Kỳ lúc đó. Ông được đánh giá là người rất khôn ngoan, có sự nghiệp gắn với chính quyền Pháp.

Năm 1859, khi quân Pháp tiến đánh Gia Định, Đỗ Hữu Phương lui về Bà Điểm, Hóc Môn lánh thân và chờ thời. Năm 1861, ông được nhận làm cộng sự của người Pháp với sự giới thiệu của cai tổng Đỗ Kiến Phước. Sài Gòn Chợ Lớn thời đó chia làm 20 hộ. Đỗ Hữu Phương được chính quyền cho làm hộ trưởng, từ đó lần lượt leo lên nhiều chức vụ khác nhau.

Chân dung tổng đốc Phương

Từ năm 1866 - 1868, Đỗ Hữu Phương chỉ huy hoạt động do thám phong trào chống đối Pháp và tham gia dẹp nhiều cuộc khởi nghĩa ở vùng Sài Gòn – Chợ Lớn và lân cận. So với những tay sai khác của Pháp, ông tỏ ra khéo léo và mềm mỏng, chủ trương tránh gây đổ máu, chuốc thù oán. Bằng sự khôn khéo của mình, ông đã thuyết phục nhiều nhân vật nổi dậy quy hàng, đồng thời xin chính phủ Pháp ân xá cho họ.

Dù vậy, Đỗ Hữu Phương tỏ ra rất không thương xót với những người nổi loạn cứng rắn. Ông đã thẳng tay trừng trị Thủ khoa Huân (Đỗ Hữu Huân) - một trong những bạn hồi thơ ấu, khi bị nhà lãnh đạo khởi nghĩa này bội tín. Bản thân Đỗ Hữu Phương đã có lần suýt chết vì sự chống trả của quân khởi nghĩa.

Với các công trạng của mình, Đỗ Hữu Phương tiếp tục thăng tiến. Đến năm 1872, ông trở thành hội viên Hội đồng thành phố Chợ Lớn và năm 1879 làm phụ tá Xã Tây Chợ Lớn cho Antony Landes.

Tận dụng chức vụ này, Đỗ Hữu Phương thường ngầm làm trung gian để giới thương gia người Hoa hối lộ cho các viên chức Pháp và bỏ túi những lợi nhuận khổng lồ. Ông giàu lên nhanh chóng, uy thế lớn đến mức quan Toàn quyền Paul Doumer cũng biết tiếng và ghé thăm. Lợi dụng cái bóng của Paul Doumer, ông thâu tóm được một diện tích đất ruộng lên đến 2.223 mẫu.

Trên đường quan lộ, Đỗ Hữu Phương vẫn thăng tiến như diều gặp gió, được thưởng tam đẳng bội tinh, thăng Tổng đốc hàm và nhận được nhiều ưu đãi khác. Năm 1881, ông gia nhập quốc tịch Pháp, các con đều được đưa sang Pháp du học.

Ông được người Pháp ca ngợi rằng: “Phương tích cực phục vụ cho sự nghiệp của nước Pháp, không chỉ với khả năng quân sự mà còn với sự hiểu biết tường tận về xứ này, đặc biệt là Chợ Lớn”. Trên thực tế, Đỗ Hữu Phương là một trong những tay sai đắc lực nhất cho các sĩ quan Pháp trong việc bình định xứ Nam Kỳ.

Ðỗ Hữu Phương mất năm 1914. Đám tang của ông được tổ chức rất trọng thể. Thi hài của ông được quàn nửa tháng mới chôn, mỗi ngày đón hàng trăm lượt khách viếng. Trâu, bò, lợn, gà được mổ liên miên để cúng và đãi khách.


Bá hộ Xường : Đại gia ngành thực phẩm

Tam Xường hay Bá hộ Xường, tên thật là Lý Tường Quan, tự Phước Trai, sinh năm 1842, mất năm 1896. Do ông còn có tên là Xường, lại rất giàu có nên người ta còn gọi là Bá hộ Xường, hay Hộ Xường. Bá hộ Xường là “đại phú hào” kinh doanh trên lãnh vực lương thực, cung cấp độc quyền mặt hàng cá, thịt cho Sài Gòn và các tỉnh. Ông được xếp ở vị trí thứ ba trong số bốn người giàu có nhất Nam Kỳ.

Cuộc đời và sự nghiệp của Bá hộ Xường - Lý Tường Quan được ghi chép lại rất ít, hầu hết chỉ còn lưu lại trong những giai thoại. Theo đó, Lý Tường Quan là người Minh Hương (Hoa Kiều trung thành với nhà Minh) chống lại nhà Thanh nên đến lánh nạn ở miền Nam Việt Nam.

Thông thạo cả tiếng Hoa lẫn tiếng Pháp, Lý Tường Quan trở thành thông ngôn cho Pháp và được chính quyền thực dân tin tưởng, trọng dụng. Tuy vậy, địa vị mà nghề thông ngôn mang lại không làm Lý Tường Quan thỏa mãn. Khoảng năm 30 tuổi, ông bỏ nghề này và nhảy vào thương trường.

Lĩnh vực mà Lý Tường Quan nhắm đến là cung cấp lương thực, thực phẩm cho Sài Gòn và các tỉnh lân cận. Biết tranh thủ thời cơ khan hiếm hàng hóa, lại giỏi lấy lòng quan Tây để được che chở, nâng đỡ, ông nhanh chóng trở thành đại gia số một trong lĩnh vực lương thực - thực phẩm lúc bấy giờ.

Với lợi nhận từ việc kinh doanh thịt cá, Bá hộ Xường bắt đầu mua đất xây cất biệt thự tại vùng Chợ Lớn để cho thuê và bán, gia sản lại càng được mở rộng.

Dinh thự của Bá hộ Xường rất bề thế, ngày nay tọa lạc trên đường Hải Thượng Lãn Ông, được nhà nước xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật cấp thành phố.

Một công trình khác ông để lại là khu nhà mồ cổ xây dựng năm 1896, hiện thuộc địa phận quận Tân Bình, TP HCM. Toàn bộ công trình tuy không đồ sộ nhưng rất khoáng đạt và tinh tế, là sự kết hợp của lối kiến trúc gôtich với phong cách Á Đông.

Bá hộ Xường qua đời năm 1896. Sau khi ông mất, hầu hết tài sản bị con cháu ăn xài, tiêu phí hết.


Bá hộ Định và các “ứng viên” khác

Trong câu truyền miệng trong dân gian “Nhất Sỹ, Nhì Phương, Tam Xường, Tứ Định”, nếu ba vị trí đầu tiên của Tứ đại phú hộ được phân định rõ ràng thì vị trí thứ tư lại có nhiều “phiên bản” khác nhau. Đôi khi “Tứ Định” được thay thế bằng Tứ Hỏa, Tứ Trạch hoặc Tứ Bưởi.

Tứ Định” ở đây chính là bá hộ Định, một thương gia có tên thật là Trần Hữu Định. Ông vốn là chủ tiệm cầm đồ rồi được chính quyền Pháp cho làm Hộ trưởng kinh doanh đất đai, xuất nhập khẩu vải sợi, phất lên thành đại gia nhờ biết nắm thời cơ những lúc hàng khan hiếm, tương tự như bá hộ Xường. Và cũng giống bá hộ Xường, sau khi bá hộ Định mất, gia sản của ông bị con cháu tàn phá tan hoang.


Trong vị trí thứ tư của Tứ đại phú hộ, “Tứ Hỏa”, thường được gọi là Chú Hỏa, là nhân vật gắn với nhiều giai thoại về sự giàu có. Chú Hỏa (1845-1901) có tên thật là Hứa Bổn Hòa, có tổ tiên là người Hoa ở Phúc Kiến chống chính quyền mãn Thanh nên di cư sang Việt Nam. Vốn là người nhặt ve chai, Chú Hỏa đã trở nên giàu có một cách lạ kỳ.

Thiên hạ đồn rằng, khi đi nhặt ve chai Chú Hỏa đã nhặt được cả túi vàng nằm trong một chiếc ghế nệm cũ và dùng số vàng đó làm ăn rồi giàu lên nhanh chóng. Các phiên bản khác của giai thoại này thay túi vằng bằng bức tượng đúc đồng nhưng bên trong đầy vàng, hoặc những thứ đồ cực kỳ quý hiếm trong những món đồ vứt đi.

4 phú hộ lừng danh đất Sài Gòn giàu cỡ nào?
Khách sạn Majestic được chú Hoả xây dựng.

Rồi có cả những giai thoại cho rằng chú Hỏa an táng mộ cha đúng long mạch nên làm ăn phát đạt hay thừa hưởng cả một kho báu của nhà Minh để lại. Những giả thiết có phần thực tế hơn cho rằng Hỏa đã tích cóp để trở thành chủ đại lý ve chai, hoặc được một ông chủ người Pháp thương tình giúp đỡ, từ đó có vốn liếng để làm ăn.

Dù sự thật như thế nào thì Chú Hỏa đã chứng tỏ được mình là một nhà kinh doanh có tài. Ông là chủ nhân của công ty bất động sản Hui Bon Hoa, từng sở hữu trên 20.000 căn nhà ở Sài Gòn.

Công ty của Chú Hỏa đã xây dựng nhiều công trình có giá trị, còn tồn tại đến nay như Bảo tàng Mỹ thuật, Khách sạn Majestic, Bệnh viện Từ Dũ, Trung tâm cấp cứu Sài Gòn, khu nhà khách Chính phủ v..v.


Ngoài ra, “Tứ Trạch” trong Tứ đại phú hộ là Trần Trinh Trạch (1872-1942). Tương truyền, ông xuất thân nhà nghèo, đi làm mướn cho một điền chủ nhập tịch Pháp nên có vốn chữ nghĩa tiếng Pháp. Sau này, ông đi làm viên chức cho tòa hành chính tỉnh Bạc Liêu. Nhờ vốn kiến thức về luật pháp mà ông giàu lên nhờ thu mua tài sản điền địa của các địa chủ thất vận.

Trần Trinh Trạch được xem là một trong những đồng sáng lập Ngân hàng Việt Nam năm 1927- ngân hàng đầu tiên do chính người Việt Nam sáng lập và điều hành, trụ sở đặt tại Sài Gòn.

Người con trai thứ ba của ông chính là Công tử Bạc Liêu, một cậu ấm ăn chơi khét tiếng cả Nam Kỳ.


Tứ Bưởi” trong Tứ đại phú hộ chính là Bạch Thái Bưởi, người được xem là nhà tư sản dân tộc tiêu biểu thời cận đại trong lịch sử Việt Nam.


Một số đại phú gia khác

Bên cạnh Tứ đại phú hộ, còn khá nhiều đại địa chủ và đại tư sản khác khá nổi tiếng như:
  • Quách Đàm (1863-1927) là một thương gia gốc Hoa, có công xây dựng nên Chợ Bình Tây.
  • Trương Văn Bền (1883-1956), người xây dựng thương hiệu Xà bông Cô Ba nổi tiếng.
  • Trần Chánh Chiếu (1868-1919), một đại điền chủ ở Nam Kỳ



mardi 3 mars 2015

PHONG TỤC : Tết Nguyên tiêu - Rằm Tháng Giêng


Trương Thanh Long
Sưu tầm - Biên soạn - Bình Luận


Ngày Rằm tháng Giêng (15 tháng 1 âm lịch - 05/03/2015) còn gọi là Tết Nguyên Tiêu, là một trong những ngày rất quan trọng theo lịch âm của người Việt Nam. Việc cúng lễ trong ngày này phần lớn được tổ chức tại chùa, vì ngày rằm tháng giêng còn là ngày vía của Phật tổ. Vào ngày này, người Việt thường đi chùa lễ Phật để cầu mong quanh năm an lành cho bản thân và gia đình. Hoặc cũng có gia đình Việt Nam tụ tập ở nhà trưởng họ hay nhà thờ họ.



Nguồn gốc và ý nghĩa của Tết Nguyên Tiêu

Tết Nguyên Tiêu có nghĩa là đêm rằm đầu tiên của năm mới. “Nguyên” là thứ nhất, “tiêu” là đêm. Tết Nguyên Tiêu còn gọi là Tết Thượng Nguyên, bởi còn có Tết Trung Nguyên (Vu lan - rằm tháng bảy) và Tết Hạ Nguyên (rằm tháng mười). Trước đây, lễ rằm tháng Giêng còn thường gọi là Tết muộn bởi những gia đình khá giả tiếp tục ăn Tết và chơi mai, đào nở muộn; những người đi làm ăn xa ở lại qua ngày rằm tháng Giêng mới lên đường; những người không may đau yếu vào đúng dịp Tết, sau Tết đã khỏe mạnh trở lại hoặc nhiều gia đình tang ma có người chết vào dịp Tết Nguyên Đán, được ăn Tết bù... Vì vậy, từ lâu trong tâm thức người Việt, rằm tháng Giêng đã có ý nghĩa không khác gì ngày Tết Nguyên đán.

Đêm ngày rằm tháng Giêng âm lịch cũng là Tết Nguyên Tiêu cổ truyền của nhân dân Trung Quốc và Đài Loan, cũng gọi là Tết Hoa Đăng hay "Lễ hội đèn hoa" hoặc "Hội hoa đăng". Do đó những nơi có người Hoa sinh sống lễ đón rằm tháng Giêng thường treo đèn kết hoa, mọi người ra ngắm cảnh hoa đăng, đố câu đối... Ở Việt Nam, những nơi có đông cộng đồng người Hoa sinh sống như Chợ Lớn, Hội An cũng có nhiều sinh hoạt đặc biệt. Ở Philippines, có lễ hội diễu hành truyền thống vào ngày rằm tháng giêng, đánh dấu khởi đầu năm mới.


Về cội nguồn của Tết Nguyên Tiêu, dân gian có nhiều giải thích. Nhiều tài liệu viết phong tục này bắt nguồn từ thời Tây Hán ở Trung Quốc với lễ hội rước đèn lồng long trọng. Hồi đó, các cung nữ sau tết Nguyên Tiêu, đều nhớ nhà và nhớ cha mẹ, nhưng cung vua canh phòng cẩn mật, làm thế nào để ra gặp mặt cha mẹ? Đông Phương Sóc nhiều trí thông minh khi nghe được tin này, bày tỏ sự đồng tình, tìm cách giúp các cung nữ thực hiện nguyện vọng gặp mặt cha mẹ. Bước đầu tiên, Đông Phương Sóc tung tin, hỏa Thần sẽ cử người đến thiêu hủy thành Trường An, khiến trong nội thành hoang mang khiếp sợ.

Sau đó, Đông Phương Sóc hiến kế với vua Hán Vũ rằng, tối ngày Rằm mọi người trong cung phải đi lánh nạn ở ngoài cùng vua, các đường to ngõ hẻm, trước nhà sau sân trong nội thành đều treo đèn lồng đỏ, tạo nên cảnh giả thành Trường An lửa cháy hừng hực, nhờ đó đánh lừa Hỏa Thần.

Vua Hán Vũ đã đồng ý phương án này của Đông Phương Sóc, thế là các cung nữ nhân Tết Nguyên Tiêu thực hiện nguyện vọng gặp mặt người thân. Từ đó, cứ đến ngày rằm tháng Giêng đều phải treo đèn lồng.


Còn có truyền thuyết cho rằng, Tết Nguyên Tiêu bắt nguồn từ việc đồng áng trong dân gian. Vào ngày Rằm tháng Giêng hàng năm, công việc cày bừa của vụ chiêm sẽ bắt đầu, bà con nông dân ở các nơi đều khẩn trương chuẩn bị cho công việc đồng áng, đến tối ngày Rằm tháng Giêng, bà con nông dân ra đồng ruộng tập trung cây cỏ lá khô, châm lửa thiêu hủy để diệt sâu bọ.

Một số ý kiến khác cho rằng, Rằm tháng Giêng bắt nguồn từ hoạt động của Phật giáo. Rằm tháng Giêng chính là ngày vía Phật tổ Adiđà, ngày không chỉ dành riêng cho thiện nam tín nữ, mà còn là ngày của mọi người, của những đôi nam thanh nữ tú đến chùa cầu duyên.

Cũng có ý kiến cho rằng, ngày Rằm tháng giêng còn là ngày vía Thiên quan, trong dân chúng đây là dịp lên chùa cúng dâng sao giải hạn (hoặc cúng tại nhà), giải trừ tai ách, cầu nguyện an lành. Vào Rằm tháng Giêng, nhiều chùa lập đàn, tụng niệm và hồi hướng công đức đầu năm, mong cầu phát sinh an lành, hạnh phúc.

Đêm Rằm tháng Giêng đã trở thành nét sinh hoạt văn hóa truyền thống của dân tộc, thấm đẫm chất nhân văn ở cả thành thị lẫn nông thôn, đâu đâu cũng treo đèn, kết hoa, ngâm thơ, bình thơ.


Tập tục và lễ hội

Ở Trung Quốc và Đài Loan , Tết Nguyên Tiêu ,rằm tháng giêng được coi là ngày lễ thiêng liêng nhất đầu năm mới và tập tục đốt đèn trên cây nêu trước cửa nhà, chơi lồng đèn ngũ sắc, kéo dài từ 13 đến 17 tháng Giêng.

Ở Thái Lan lễ hội Rằm tháng Giêng là lễ Hội cúng dường đức Phật, đức Pháp và đức Tăng qua hình thức tụng Tam Tạng Kinh từ 07 đến 10 ngày

Ở Ấn độ quanh khu vực thánh địa nơi đức Phật ngồi đắc đạo dưới gốc Bồ đề nhiều quốc gia như Tích Lan, Miến Điện, Lào, Thái, Campuchia, Tạng truyền. Mở những pháp hội tụng Tam Tạng Pali cúng dường  đức Phật

Ở Việt Nam,  Tết Nguyên Tiêu hay Rằm tháng Giêng, phần lớn tổ chức tại chùa,


Bài văn khấn cúng Rằm Tháng Giêng
(ngày lễ Nguyên Tiêu, lễ Thượng Nguyên)


- Kính lạy chư vị Tôn thần cai quản khu vực này
- Kính cáo các vị chư gia Cao tằng Tổ khảo, Cao tằng Tổ tỷ, cùng chư vị tiền nhân họ...(ghi họ chủ nhà)
   Chúng con là:....................................................................
   Hiện nay ở tại...................................................................
   Cùng toàn gia kính bái
   Kính cẩn thưa rằng:
   Nay là tháng
   "Tam dương khai thái"*
   Rằm tháng Giêng
   "Vạn tượng canh tân"*
   Lung linh trong ánh trăng ngần
   Là ngày Thượng nguyên đón tết
   Một năm mới
   Nguyên tiêu hanh cát
   Đêm trăng vàng
   Dát bạc lung linh
   Phiêu diêu trong khói hương trầm
   Tiền tổ gia tiên đông đủ
   Nay chúng con
   Lòng thành tâm cỗ bàn đủ đầy
   Cùng hương hoa phù tửu dâng lên
   (Kể các thứ cúng)
   ........................................................................
   Xin kính thỉnh
   Cao tằng tổ khảo, tiên linh
   Cao tằng tổ tỷ, vị tiền
   Thụ hưởng!
   Toàn gia thỉnh nguyện thành tâm
   Tiên tổ ra ân ban phúc
   Cho quanh năm, hanh thông mọi việc
   Vạn sự làm luôn được gặp may
   Gia tiên đức cả cao dày
   Cháu con ghi tạc ơn này dài lâu.
                                        Cẩn cáo


Bảng các ngày lễ âm lịch quan trọng cho 10 năm: 2015 - 2024



Bình luận

Đến ngày Rằm tháng Giêng, người Việt lại ăn một cái Tết nữa, là Tết Nguyên Tiêu hay còn gọi là Tết Thượng Nguyên. Tết này tổ chức tại chùa và tại gia. Vào ngày Rằm tháng Giêng, các gia đình Việt sẽ tiếp tục làm cơm cúng thịnh soạn dâng lên bàn thờ gia tiên với quan niệm

“Giỗ tết cả năm không bằng ngày Rằm tháng Giêng”


Rằm Tháng Giêng ở Việt Nam tách khỏi quan niệm này và đưa vào ngày Tết Nguyên Tiêu ý nghĩa tôn giáo, bởi thế mà dân gian còn có câu

Lễ Phật quanh năm không bằng ngày Rằm tháng Giêng

Vào ngày này, người Việt sau khi hoàn tất việc cúng bái tại gia, thường lên chùa dâng hương và đặc biệt hay lên chùa vào lúc trời tối, khi trăng tròn đầu năm đã lên cao.

Dù kinh điển nhà Phật không nói đến ngày rằm Tháng Giêng nhưng trong dân gian thì đây là dịp thích hợp để lên chùa dâng sao giải hạn, ước nguyện điềm lành.


lundi 9 février 2015

PHONG TỤC : Những món ăn Tết bị kiêng kị theo quan niệm của người Việt


Trương Thanh Long
Sưu tầm - Biên soạn - Bình Luận



Nhiều món ăn Tết từ thịt chó, xôi trắng, cá mè, trứng vịt lộn … được ưa chuộng hàng ngày lại bị kiêng kị trong ngày đầu năm mới theo quan niệm truyền thống của cha ông từ xưa.


Thịt chó

Bên cạnh những món ăn Tết truyền thống không thể thiếu trong ngày đầu năm như bánh chưng xanh, giò, gà luộc…, có nhiều món ăn ngon hằng ngày lại bị “cấm cửa” vì bị cho là “kém may mắn”. Thịt chó Thịt chó là thức ăn giàu chất dinh dưỡng và là món “khoái khẩu” của nhiều người. Thậm chí, thịt chó coi được coi là “quốc hồn quốc túy”, là nét ẩm thực riêng có của người Việt Nam.


Thế nhưng, người ta quan niệm rằng ăn thịt chó vào đầu năm hay đầu tháng thì cả năm, cả tháng đó sẽ xui xẻo, không may mắn. Tuy vậy, thịt chó lại được coi là món giải xui nếu ăn vào cuối tháng.


Thịt vịt

Thịt vịt là món ăn kiêng kỵ vào dịp đầu tháng và đầu năm của người miền Bắc và miền Trung. Món ăn này bị xem là không tốt, kém may mắn, nhất là vào dịp đầu năm.


Người ta cho rằng, nếu ăn thịt vịt sẽ đen đủi, “tan đàn, xẻ nghé”. Thay vì sử dụng thịt vịt, người ta dùng thịt gà với ý nghĩa cát tường hơn. Giống như thịt chó, vào những ngày cuối tháng, món thịt vịt lại được xem là món ăn “giải đen”.


Trứng vịt lộn

Món trứng vịt lộn ngon và bổ dưỡng. Tuy nhiên, quan niệm của người miền Trung và miền Bắc rất kiêng ăn trứng vịt lộn đầu tháng, đầu năm.


Họ quan niệm rằng, nếu ăn trứng vịt lộn vào đầu tháng, đầu năm thì cả tháng, cả năm sẽ không được may mắn. Mọi thứ đều xảy ra trái với ý mình.


Mực

Mực cũng là loại thực phẩm có trong danh sách “đen” của cả ba miền Bắc, Trung, Nam. Nguyên nhân của điều này xuất phát từ quan niệm “đen như mực”  của ông cha ta từ nhiều năm trước.


Theo quan niệm, nếu ăn mực vào đầu năm thì cả năm sẽ đen đủi, ăn mực đầu tháng sẽ không may mắn. Thậm chí, nhiều bậc cha mẹ còn không cho con ăn mực trước ngày thi. Nhiều người kị ăn mực khi đi xa vì có công việc quan trọng.


Tôm

Nếu người miền Bắc không kiêng kỵ tôm vào ngày Tết thì người miền Nam lại rất ít sử dụng món ăn này. Người miền Nam cho rằng tôm đầu to và đi giật lùi, nếu ăn tôm vào đầu năm sẽ khó “đầu xuôi, đuôi lọt”. Mọi việc trong năm mới sẽ không thể thuận buồm xuôi gió, không thăng tiến và phát tài phát lộc được.


Cá mè

Người miền Bắc và miền Trung đều kiêng ăn cá mè đầu năm. Nhiều người cho rằng nguyên nhân là do chữ “mè” đi theo với chữ “mè nheo”.Hơn nữa, cá mè còn tanh và nhiều xương hơn các loại cá khác. Có lẽ vì thế, họ quan niệm loài cá này sẽ mang đến một năm đen đủi. Nhất là với người miền Trung, họ cho rằng ăn cá mè đầu năm thì cả năm sẽ bị “hãm tài”.


Chuối

Với người miền Bắc, chuối là loại quả không thể thiếu trên mâm ngũ quả thì với người miền Nam lại tránh ăn chuối những ngày đầu năm do sợ ảnh hưởng đến việc thăng tiến. Nguyên nhân là do chữ “chuối” nói lái đi sẽ thành “chúi” theo giọng miền Nam nghĩa là không thể ngẩng lên được. Cũng có người theo sách nho bảo ” tiền đàng bất khả thụ ba tiêu ” (Trước nhà thì không được trồng chuối). Và trái chuối cũng mang hình tượng không đẹp.



 Đu đủ

Người miền Bắc hoặc miền Nam đều quan niệm đu đủ là thứ không thể thiếu trong mâm ngũ quả, mang đến một năm đầy đủ, sung túc. Tuy nhiên, người miềnTrung lại kiêng ăn quả này. Họ coi trọng nguyên tắc liên tưởng theo ngữ nghĩa của tên gọi, nên cũng tránh những loại quả có tên "xui xẻo". Theo đó, không chọn quả đu đủ vì tên gọi này phát âm giọng miền Trung nghe gần như “thù đủ” với ý nghĩa không cát tường. Điều tương tự cũng diễn ra với quả lê và cam khi gọi lái thành “lê lết” và “ cam chịu”. Vì cái lẽ “quýt làm cam chịu”, mà trái cam không được bày biện trên mâm ngũ quả vào dịp Tết ở miền Nam.



Bình luận

Bên cạnh kiêng nhiều món ăn, người Việt còn kiêng cho lửa, nước do quan niệm cho đi may mắn; tránh nói giông hoặc nói xui như: "Chết rồi!", "Tiêu rồi!", kiêng làm vỡ bát đĩa, cãi vã; quét nhà... trong “3ngày Tết, 7 ngày Xuân", Những kiêng cử này tựu trung       đều phản ánh mong ước về một cuộc sống êm đềm, sung túc, may mắn cho cả năm. Ngày nay, dù khoa học công nghệ phát triển, quan niệm “Có thờ có thiêng - Có kiêng có lành” trong món ăn Tết vẫn tồn tại như một nét văn hóa tinh thần trong tâm hồn người Việt.


Mâm cỗ Tết

Mâm cỗ Tết đủ lệ bộ là 4 bát, 6 đĩa. Bốn bát gồm bóng  thập cẩm nấu với nước dùng gà, canh măng, chân giò hầm nấm và miến nấu lòng gà. Sáu đĩa là xôi, thịt gà luộc, thịt đông, đồ xào, giò lụa và dưa hành muối.


Mâm cỗ Tết có nhiều màu sắc hài hoà nhưng cũng thay đổi theo từng miền Nam-Trung- Bắc. Những món ngon thường thấy trong ngày tết cổ truyền của người Việt. Mỗi món ăn mang một hương vị và có ý nghĩa riêng của từng món. Các bạn hãy tìm hiểu và tự tay mình chế biến những món ăn ngon và hấp dẫn để góp phần thêm hương vị tươi vui trong không khí ngày xuân.


Xin xăm

Xin xăm là một hình thức tin vào các thẻ xăm có ghi lời sấm báo trước điềm lành hay dữ trong năm và thường cần có thầy cúng bàn xăm...


Ngày nay, giới trẻ đi chùa xin xăm chỉ mang tính chất giải trí và không còn mang màu sắc tôn giáo hay thần linh.


Ngày tối kỵ

Ngày mồng 5 tháng giêng Âm lịch là ngày tối kỵ trong năm người việt thường tin rằng ngày này không thích hợp cho xuất hành. Có câu ca dao của miền Nam như sau :

Mồng năm, mười bốn, hăm ba
Đi chơi cũng thiệt nữa là đi buôn !

Trong năm thì ngày mồng 5 đầu năm là ngày kị đối với nhiều người tin vào và điều này rất phổ biến trong Nam. Nhưng có người lại nói rằng đó là ngày Nguyệt kỵ, chỉ kiêng xuất hành mà thôi. Còn mở hàng, làm ăn, giao dịch vẫn có thể. Một số quan niệm đó ngày không tốt, nhưng có ý kiến cho rằng đó là ngày dành cho vua.


Khi 89% “ông đồ” viết sai chữ!

Mới đây, trung tâm Hoạt động Văn hóa Khoa học Văn Miếu - Quốc Tử Giám đã tổ chức sát hạch những “ông đồ” sẽ được vào cho chữ thiên hạ tại hồ Văn (nằm trong Văn Miếu - Quốc Tử Giám) nhân dịp xuân Ất Mùi. Và kết quả đưa ra vào ngày 1/2/2015 đã khiến thiên hạ giật mình : Cuộc sát hạch có 2 phần, phần chữ Hán và phần quốc ngữ, thì 70% số “ông đồ” viết sai chữ quốc ngữ, còn phần sát hạch chữ Hán, chỉ có 11% đạt chuẩn, đủ điều kiện vào hồ Văn để cho chữ thiên hạ.

Người Việt có truyền thống yêu chữ, trọng chữ. Nên đầu xuân, ai cũng muốn “thỉnh” được một vài chữ ưng ý mang về, treo ở những chỗ trang trọng nhất trong ngôi nhà của mình. Đó là một nét văn hóa, một sinh hoạt văn hóa đẹp, và đó cũng chính là nguyên nhân hình thành “phố ông đồ” ở Văn Miếu - Quốc Tử Giám, dấu tích của trường đại học đầu tiên và duy nhất ở Việt Nam. Với người Việt, thì chữ Hán, dù đã qua thời hoàng kim (nếu tính từ khoa thi chữ Hán cuối cùng do triều Nguyễn tổ chức vào năm 1918, dưới triều vua Thành Thái) được gần 100 năm, nhưng vẫn được coi là một thứ chữ sang trọng.

Con số 89% số “ông đồ” giả đó, đã góp phần làm phong phú thêm cho những cái giả khác đang hiện hữu trên đất nước Việt Nam. Đó là tiến sỹ giả, thạc sỹ giả, cử nhân giả, bác sỹ giả.




vendredi 6 février 2015

BLOG : Tết Nguyên đán 2015


Trương Thanh Long
Sưu tầm - Biên soạn - Bình Luận


Chúc các bạn một năm mới 
vạn sự như ý, 
tiến tài tiến lộc, 
an khang thịnh vượn
và sức khỏa dồi dào.


Tết Nguyên đán là lễ hội lớn nhất trong các lễ hội truyền thống Việt Nam từ hàng ngàn đời nay. Tết còn là dịp để mọi người Việt Nam tưởng nhớ, tri âm tổ tiên, nguồn cội… Ngày Tết, dân tộc ta có nhiều phong tục hay như khai bút, khai canh, hái lộc, chúc Tết, du xuân, mừng thọ….Từ già đến trẻ ai cũng biết, ngày tết trong nhà ít nhất cũng phải có cành hoa, bánh chưng, bánh tét, chai rượu…

Tết Nguyên Đán (hay còn gọi là Tết Ta hay Tết Âm lịch) là dịp lễ quan trọng nhất của Việt Nam, theo ảnh hưởng văn hóa của Tết Âm lịch Đông Á. Trước ngày Tết, thường có những ngày khác để sửa soạn như Tết Táo Quân (23 tháng chạp âm lịch) và Tất Niên (29 hoặc 30 tháng chạp âm lịch)

Vì Tết tính theo Âm lịch là lịch theo chu kỳ vận hành của Mặt Trăng nên Tết Nguyên Đán của Việt Nam muộn hơn Tết Dương lịch (Tết Tây). Do quy luật 3 năm nhuận một tháng của Âm lịch nên ngày đầu năm của dịp Tết Nguyên đán không bao giờ trước ngày 21 tháng 1 Dương lịchsau ngày 19 tháng 2 Dương lịch mà thường rơi vào khoảng cuối tháng 1 đến giữa tháng 2 Dương lịch. Toàn bộ dịp Tết Nguyên đán hàng năm thường kéo dài trong khoảng 7 đến 8 ngày cuối năm cũ và 7 ngày đầu năm mới (23 tháng Chạp đến hết ngày 7 tháng Giêng Âm lịch).

Hàng năm, Tết được tổ chức vào ngày mồng 1 tháng 1 theo âm lịch trên đất nước Việt Nam và ở một vài nước khác có cộng đồng người Việt sinh sống. Trong những ngày Tết, các gia đình sum họp bên nhau, cùng thăm hỏi người thân, mừng tuổi và thờ cúng tổ tiên... Theo phong tục tập quán, Tết thường có những điều kiêng kỵ


1. Những phong tục trong ngày Tết Nguyên Đán của Người Việt

Người Việt Nam quan niệm rằng ngày Tết thì tất cả mọi thứ đều phải thật sớm và mới. Do đó trước ngày Tết khoảng hơn 2 tuần, các gia đình đã sắm sửa cho ngày Tết. Họ thường quét dọn, trang trí nhà cửa, mua hoa, sắm thức ăn... thật chu đáo cho ngày Tết. Ngoài ra, tất cả những vật dụng không cần thiết hoặc bị cho là đem lại điềm gở cũng bị vứt bỏ.

1.1. Cuối năm

Công việc sửa soạn cho ngày Tết của người Việt thường bắt đầu từ ngày 23 tháng Chạp, là ngày mà người Việt cúng ông Táo (Táo quân). Theo quan điểm của người Việt thì ông Táo vừa là thần bếp trong nhà vừa là người ghi chép tất cả những việc làm tốt xấu mà con người đã làm trong năm cũ và báo cáo với Ngọc Hoàng những vấn đề tốt xấu của gia chủ. Ông Táo được cúng vào trưa hoặc chiều ngày 23 tháng Chạp âm lịch hàng năm. Lễ cúng gồm có hương, nến, hoa quả, vàng mã và hai mũ đàn ông, một mũ đàn bà kèm theo ba con cá chép (cá chép thật hoặc cá chép làm bằng giấy kèm theo cỗ mũ). Theo sự tích ông Táo, cá chép sẽ đưa ông Táo vượt qua Vũ Môn để lên Thiên đình gặp Ngọc Hoàng. Một số gia đình ở nông thôn vẫn còn gìn giữ phong tục dựng cây nêu, trong khi ở thành phố, phong tục này đã bị lãng quên. Theo phong tục, cây nêu được dựng lên để chống lại quỷ dữ và những điềm gở. Cây nêu thường được treo hoặc trang trí thêm những thứ được coi là để dọa ma quỷ như : tỏi, xương rồng, hình nộm và lá dứa.


Trước ngày Tết, người Việt cũng chuẩn bị bánh chưng, bánh tét và các món ăn thịnh soạn để dâng lên ông bà tổ tiên.

1.2. Tất niên

Ngày Tất niên có thể là ngày 30 tháng Chạp (nếu là năm đủ) hoặc 29 tháng Chạp (nếu là năm thiếu). Đây là ngày gia đình sum họp lại với nhau để ăn cơm buổi tất niên. Buổi tối ngày này, người ta làm cỗ cúng tất niên. Giữa ngày 30 (hoặc 29) tháng Chạp và ngày mồng 1 tháng Giêng, giờ Tý (từ 23 giờ hôm trước đến 1 giờ hôm sau), trong đó thời điểm bắt đầu giờ Chính Tý (0 giờ 0 phút 0 giây ngày Mồng 1 tháng Giêng) là thời khắc quan trọng nhất của dịp Tết. Nó đánh dấu sự chuyển giao năm cũ và năm mới, nó được gọi là Giao thừa. Để ghi nhận thời khắc này, người ta thường làm hai mâm cỗ. Một mâm cúng gia tiên tại bàn thờ ở trong nhà mình và một mâm cúng thiên địa ở khoảng sân trước nhà. Một số cộng đồng lấy con hổ là vật thờ thì gọi là cúng Ông Ba Mươi. Một số cộng đồng khác thì có một phần cỗ dành để cúng chúng sinh, cúng những cô hồn lang thang không nơi nương tựa.


Sắp dọn bàn thờ 
Trong gia đình người Việt thường có một bàn thờ tổ tiên, ông bà (hay còn gọi ông Vải). Cách trang trí và sắp đặt bàn thờ khác nhau tùy theo từng nhà. Biền, bàn thờ là nơi tưởng nhớ, là thế giới thu nhỏ của người đã khuất. Hai cây đèn tượng trưng cho mặt trời, Mặt Trăng và hương là tinh tú. Hai bát hương để đối xứng. Phía sau hai cây đèn thường có hai cành hoa cúc giấy với nhiều bông nhỏ bao quanh bông lớn. Có nhà cũng cắm "cành vàng lá ngọc" (một thứ hàng mã) với sự cầu mong làm ăn được quả vàng, quả bạc và buôn bán lãi gấp nhiều lần năm trước. Ở giữa có trục "vũ trụ" là khúc trầm hương dưới dạng khúc khủy và vươn lên trong bát hương. Nhiều gia đình đặt xen hai cái đĩa giữa đèn và hương để đặt hoa quả lễ gọi là mâm ngũ quả (tuỳ mỗi miền có sự biến thiên các loại quả, nhưng mỗi loại quả đều có ý nghĩa của nó). Trước bát hương để một bát nước trong để coi như nước thiêng. Hai cây mía đặt ở hai bên bàn thờ là để các cụ chống gậy về với con cháu và dẫn linh hồn tổ tiên từ trên trời về hạ giới.

Giao thừa
Giao thừa là thời khắc chuyển giao giữa năm cũ và năm mới. Trong thời khắc giao thừa mọi người trong gia đình thường dành cho nhau những lời chúc tốt đẹp nhất. Dịp này, người ta thường bắn pháo hoa ở những địa điểm rộng rãi, thoáng mát. Cúng Giao thừa là lễ cúng để đem bỏ hết đi những điều xấu của năm cũ sắp qua để đón những điều tốt đẹp của năm mới sắp đến.



Cúng Giao thừa ngoài trời
Theo tục lệ cổ truyền thì Giao thừa được tổ chức nhằm đón các Thiên binh (12 vị Hành khiển). Lúc đó họ đi thị sát dưới hạ giới, rất vội không kịp vào tận bên trong nhà được, nên bàn cúng thường được đặt ở ngoài cửa chính mỗi nhà. Hết một năm, vị Hành khiển cũ đã cai quản Hạ giới trong năm cũ sẽ bàn giao công việc cho vị Hành khiển mới đi xuống sẽ cai quản Hạ giới trong năm mới. Mỗi năm có một vị, sau 12 năm thì các vị Hành khiển sẽ luân phiên trở lại.

Mâm lễ được sắp bày với lòng thành kính tiễn đưa người Nhà Trời đã cai quản mình năm cũ trở lại Thiên đình và đón người mới xuống sẽ làm nhiệm vụ cai quản Hạ giới năm tới. Vì việc bàn giao, tiếp quản công việc hết sức khẩn trương nên các vị chỉ có thể ăn vội vàng hoặc mang theo, thậm chí chỉ chứng kiến lòng thành của chủ nhà : Trên chiếc hương án có bình hương, hai ngọn đèn dầu hoặc hai ngọn nến.

Lễ vật gồm các chiếc thủ lợn hoặc con gà, bánh chưng, mứt kẹo, trầu cau, hoa quả, rượu hoặc nước và vàng mã. Các quan mặc dầu phút bàn giao bận rộn khẩn trương nhưng vì là... người nhà trời nên có tài thấu hiểu ngay "Ruột gan" của gia chủ. Nếu có ý cầu lợi, mua chuộc, đút lót, các vị chỉ nhìn dấu hiệu ở khói hương, lửa đèn là biết ngay, và lập tức các vị dông thẳng, không thèm ngó ngàng gì đến vật cúng giao thừa của các nhà cầu lợi ấy. Trái lại, những nhà chân chất, thật thà, sống bằng lao động, ăn ở tử tế thì có khi chỉ cần chén rượu, nén hương (như Thổ công đánh tín hiệu qua hương đèn), các vị có chức trách biết ngay mà vui vẻ thưởng thức, dốc lòng phù hộ.

Lễ trừ tịch còn là lễ để "khu trừ ma quỷ", do đó có từ "trừ tịch". Lễ trừ tịch cử hành vào lúc giao thừa nên còn mang tên là lễ giao thừa.

Cúng Giao thừa trong nhà
Cúng Giao thừa trong nhà là lễ cúng tổ tiên vào chính thời khắc giao thừa vừa tới nhằm để cầu xin Tổ tiên phù hộ độ trì cho gia đình gặp những điều tốt lành trong năm mới sắp đến. Mâm lễ bao gồm các món ăn mặn ngày Tết được chế biến tinh khiết với phong cách trang nghiêm.



Cỗ mặn gồm có bánh chưng, giò, chả, xôi gấc, thịt gà, xôi các loại, rượu, bia và các loại thức uống khác. Các món ăn mặn khác tùy theo nhu cầu của gia đình. Cỗ ngọt và chay bao gồm Hương, hoa, đèn nến, bánh kẹo, mứt tết.

Khi cúng Giao thừa trong nhà, các thành viên trong gia đình thường đứng trang nghiêm trước bàn thờ (không cần tất cả, chỉ cần gia chủ và vài ba người nữa) để khấn tổ tiên và xin được các cụ phù hộ độ trì trong nhà mới và cầu an khang thịnh vượng, sức khỏe tốt. Trước khi khấn Tổ tiên để mời tiền nhân về ăn Tết cùng với con cháu hậu thế, các gia chủ thường khấn thần Thổ Công để xin phép cho tổ tiên về ăn Tết. Ông là vị thần cai quản trong nhà (thường bàn thờ tổ tiên ở giữa, bàn thờ Thổ Công ở bên trái).

1.3. Bảy ngày đầu năm

Ba ngày Tân niên
  • "Ngày mồng Một tháng Giêng" là ngày Tân niên đầu tiên và được coi là ngày quan trọng nhất trong toàn bộ dịp Tết. Không kể những người tốt số, hợp tuổi được mời đi xông đất, vào sáng sớm ngày này, người Việt cổ thường không ra khỏi nhà, chỉ bày cỗ cúng Tân niên, ăn tiệc và chúc tụng nhau trong nội bộ gia đình. Đối với những gia đình đã tách khỏi cha mẹ và cha mẹ vẫn còn sống, họ đến chúc tết các ông bố theo tục Mồng Một Tết cha.


  • "Ngày mồng Hai tháng Giêng" là ngày có những hoạt động cúng lễ tại gia vào sáng sớm. Sau đó, người ta chúc tết các bà mẹ theo tục Mồng Hai Tết mẹ. Riêng đàn ông chuẩn bị lập gia đình còn phải đến nhà cha mẹ vợ tương lai (nhạc gia) để chúc Tết theo tục Đi sêu.
  • "Ngày mồng Ba tháng Giêng" là ngày sau khi cúng cơm tại gia theo lệ cúng ít nhất đủ ba ngày Tết, các học trò thường đến chúc Tết thầy dạy học theo tục Mồng Ba Tết thầy. Trong những ngày này người ta thường đi thăm viếng, hỏi thăm nhau những điều đã làm trong năm cũ và những điều sẽ làm trong năm mới.

Xông đất
Xông đất (hay đạp đất, mở hàng) là tục lệ đã có lâu đời ở Việt Nam. Nhiều người quan niệm ngày Mồng Một khai trương một năm mới. Họ cho rằng vào ngày này, nếu mọi việc diễn ra suôn sẻ, may mắn, cả năm cũng sẽ được tốt lành, thuận lợi. Ngay sau thời khắc giao thừa, bất cứ người nào bước từ ngoài vào nhà với lời chúc năm mới được coi là đã xông đất cho gia chủ. Người khách đến thăm nhà đầu tiên trong một năm cũng vì thế mà quan trọng. Cho nên cứ cuối năm, mọi người cố ý tìm xem những người trong bà con hay láng giềng có tính vui vẻ, linh hoạt, đạo đức và thành công để nhờ sang thăm. Người đến xông đất thường chỉ đến thăm, chúc tết chừng 5 đến 10 phút chứ không ở lại lâu, cầu cho mọi việc trong năm của chủ nhà cũng được trôi chảy thông suốt.

Người đi xông đất xong có niềm vui vì đã làm được việc phước, người được xông đất cũng sung sướng vì tin tưởng gia đạo mình sẽ may mắn trong suốt năm tới. Thời xưa, chỉ có hai cách chọn người tốt vía xông đất ngày đầu năm. Kẻ làm quan, người có học chọn người xông đất có tuổi hợp tuổi với chủ nhà.

Xuất hành và hái lộc
Xuất hành là lần đi ra khỏi nhà đầu tiên trong năm, thường được thực hiện vào ngày tốt đầu tiên của năm mới để đi tìm may mắn cho bản thân và gia đình. Trước khi xuất hành, người ta phải chọn ngày Hoàng đạo, giờ Hoàng đạo và các phương hướng tốt để mong gặp được các quý thần, tài thần, hỉ thần... Tại miền Bắc, nếu xuất hành ra chùa hay đền, sau khi lễ bái, người Việt còn có tục bẻ lấy một cành lộc để mang về nhà lấy may, lấy phước. Đó là tục hái lộc. Cành lộc là một cành đa nhỏ hay cành đề, cành si... là những loại cây quanh năm tươi tốt và nảy lộc. Tục hái lộc ở các nơi đền, chùa ngụ ý xin hưởng chút lộc của Thần, Phật ban cho nhân năm mới. Cành lộc thường đem về cắm ở bàn thờ. Khác với miền Bắc, miền Trung không có tục hái lộc đầu năm nhờ thế mà cây cối trong các đền chùa ở miền Trung vẫn giữ nguyên lá xanh biếc suốt cả mùa xuân.

Tuy nhiên việc hái lộc ngày nay đã có những quan niệm trái chiều so với trước đó là: - Việc hái lộc không nên vì có thể có những cành lộc có "Vong" (linh hồn) bám theo. Khi chúng ta hái lộc về vô tình sẽ mang "Vong" về theo, nếu "Vong" tốt thì không sao nhưng nếu "Vong" xấu thì có thể làm cho nhà cửa chúng ta không may mắn... Đây là vấn đề mang tinh Duy tâm tuy nhiên nó cũng có cái lý của nó. - Tiếp theo việc hái lộc đôi khi làm ảnh hưởng đến cây xanh cảnh quan đô thị vì tâm lý mọi người đều muốn đem thật nhiều lộc về nhà cầu may, do vậy đã không ít trường hợp làm hỏng hết cây cối gây ảnh hưởng đến môi trường... - Cuối cùng việc hái lộc đôi khi dẫn đến xô xát do việc tranh cướp hoặc hái "trộm" lộc trong các cơ quan nhạy cảm như Ngân hàng chẳng hạn... Những việc làm này không biết có mang lại may mắn không nhưng nó phản ánh mặt xấu của Văn hóa ứng xử của những người trong cuộc...

Chúc Tết
Sáng mồng Một Tết còn gọi là ngày Chính đán, con cháu tụ họp ở nhà tộc trưởng để lễ Tổ Tiên và chúc tết ông bà, các bậc huynh trưởng. Theo quan niệm, cứ năm mới tới, mỗi người tăng lên một tuổi, bởi vậy ngày mồng Một Tết là ngày con cháu "chúc thọ" ông bà và các bậc cao niên (ngày xưa, các cụ thường không nhớ rõ ngày tháng sinh nên chỉ biết Tết đến là tăng thêm một tuổi).

Tục thăm viếng
Thăm viếng họ hàng là để gắn kết tình cảm gia đình họ hàng. Lời chúc tết thường là sức khỏe, phát tài phát lộc, gặp nhiều may mắn, mọi ước muốn đều thành công... Những người năm cũ gặp rủi ro thì động viên nhau tai qua nạn khỏi hay của đi thay người nghĩa là trong cái họa cũng tìm thấy cái phúc, hướng về sự tốt lành.


Đến thăm những người hàng xóm của mình và những gia đình sống gần với gia đình mình, chúc họ những câu tốt lành đầu năm mới. Những chuyến thăm hỏi này giúp gắn kết mọi người với nhau, xóa hết những khúc mắc của năm cũ, vui vẻ đón chào năm mới.

Đến thăm những người bạn bè, đồng nghiệp và những người thân thiết với mình để chúc họ những câu tốt lành, giúp tình cảm bạn bè gần gũi hơn.

Mừng tuổi
Người lớn thường tặng trẻ em tiền bỏ trong một bao giấy đỏ gọi là "lì xì" với những lời chúc mừng ăn no, chóng lớn.


Theo cổ tích Trung Quốc thì trong giấy lì xì có 8 đồng tiền (Bát Tiên hóa thân) được đặt dưới gối đứa trẻ để xua đuổi quỷ đến quấy nhiễu, vì ma sẽ sợ giấy màu đỏ. Tiền mừng tuổi nhận được trong ngày Tết gọi là "Tiền mở hàng". Xưa còn có lệ cho tiền phong bao với số tiền lẻ (chứ không phải là tiền chẵn), ngụ ý tiền này sẽ sinh sôi nảy nở thêm nhiều.

Hóa vàng
Ngày mồng 4 tháng Giêng theo lịch cổ là ngày con nước. Trong ngày này, người Việt làm lễ cúng tổ tiên đã về ăn Tết với con cháu và đốt nhiều vàng mã để tiền nhân về cõi âm có thêm tiền vốn đầu năm, đặng phù hộ độ trì cho con cháu hậu thế làm ăn phát đạt. Tại nhiều vùng ở Đồng bằng Bắc Bộ, người Việt có tục hát chèo đò đưa tổ tiên trở lại thế giới bên kia.

Tục hóa vàng ngày mồng 4 hoặc mồng 5, không ít gia đình vẫn theo truyền thống cũ : làm cơm, đốt vàng mã gửi người thân khuất bóng lời cầu nguyện một năm mới nhiều may mắn. Theo nhà sử học Dương Trung Quốc, tục hoá vàng dựa trên tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, vật hoá vàng thường gắn với đời sống thường nhật, để thấy con người ở thế giới vô hình bên kia sống gần với dương gian. Vào ngày mồng 4 và mồng 5 tháng Giêng, người ta kiêng xuất hành vì đây là ngày không tốt.

Khai hạ
Ngày mồng 7 tháng Giêng (cũng có thể là mồng 6 tháng Giêng) là ngày cuối cùng của chuỗi lễ hội Tết. Trong ngày này, người Việt làm lễ hạ Cây nêu, gọi là lễ Khai hạ, kết thúc dịp Tết Nguyên đán và bắt đầu bước vào việc làm ăn trong năm mới từ ngày mồng 8 hoặc mồng 9 tháng Giêng.


2. Dọn dẹp, trang trí

2.1. Ý nghĩa mâm ngũ quả ngày Tết theo từng vùng miền

Tết Nguyên Đán, bất cứ gia đình người Việt nào cũng phải có một mâm ngũ quả ngày tết dâng lên ông bà tổ tiên. Với nhiều loại trái cây khác nhau, nó thể hiện ước nguyện của gia chủ về một năm mới phúc lộc đầy nhà.

Ý nghĩa bao quát của mâm ngũ quả truyền thống  
Mâm ngũ quả ngày Tết có ý nghĩa bao trùm là thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn, thể hiện lòng thành kính đối với các bậc tổ tiên. Cách bày mâm ngũ quả ngày Tết cũng là yếu tố thể hiện thành quả làm việc của một năm. Ngoài ra, tùy ở những góc độ mâm ngũ quả còn có các ý nghĩa khác.

Y nghia mam ngu qua ngay Tet theo tung vung mien
Bày mâm ngũ quả ngày Tết khéo léo với mong ước vạn sự như ý

Mâm ngũ quả ngày tết gồm 5 loại quả có 5 màu sắc khác nhau. Con số 5 thể hiện ước muốn của người Việt Nam mới sẽ đạt ngũ phúc lâm môn : Phú, quý, thọ, khang, ninh. 5 màu sắc thể hiện ý nghĩa nguồn của cải năm phương đưa về kính lên tổ tiên. Như nải chuối có màu xanh tượng trưng Đông phương, quả bưởi có màu vàng tượng trưng Trung phương, quả hồng có màu đỏ tượng trưng Nam phương, quả lê có màu trắng tượng trưng Tây phương và một loại quả có màu sẫm khác tượng trưng Bắc phương. Năm màu sắc này cũng tượng trưng ngũ hành trong vũ trụ là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ.

Y nghia mam ngu qua ngay Tet theo tung vung mien

Con số 5 trong mâm ngũ quả còn thể hiện lịch sử tín ngưỡng dân tộc. Ví dụ, đạo Phật có ngũ giới, tức 5 điều quy định của đạo Phật. Đạo Lão với ngũ hành. Đạo Khổng là ngũ thường. Nguyên nhân chọn ngũ quả thay vì chọn các yếu tố khác bởi người xưa quan niệm hoa quả có nhiều hạt, múi, chùm. Điều này thể hiện mong ước sang năm mới sẽ sinh sôi phát triển cả trong sản xuất lẫn cuộc đời. Dưới đây là ý nghĩa của mâm ngũ quả theo từng vùng miền.

Miền Bắc  
Mâm quả đặt trên bàn thờ tổ tiên vào dịp Tết được bày theo 5 màu sắc khác nhau tượng trưng cho ngũ phúc: giàu có, sang trọng, sống lâu, khỏe mạnh, bình yên. Chọn màu sắc trái cây cũng dựa theo ngũ hành: Kim màu trắng, Mọc màu xanh, thủy màu đen, Hỏa màu đỉ, Thổ màu vàng.

Y nghia mam ngu qua ngay Tet theo tung vung mien
Bày mâm ngũ quả ngày Tết theo phong cách miền Bắc 

Các loại quả thường được trọng dụng như: chuối xanh, bưởi, cam, quýt, hồng, ớt, roi,…. Đều là những thứ quả đặc trưng với khí hậu của miền Bắc.

Miền Nam 
Mâm ngũ quả của miền Nam tuy không được bày, bố trí theo quan niệm ngũ hành nhưng cũng có những kiêng kị nhất định. Miền Nam tuyệt đối không chọn chuối để bày vì nó phát âm khá giống từ “chúi” thể hiện sự nguy khó và không may mắn, quýt cũng là loại quả cấm kị vì có câu “quýt làm cam chịu”.

Y nghia mam ngu qua ngay Tet theo tung vung mien
Bày mâm ngũ quả ngày Tết theo phong cách miền Nam với nhiều loại quả khác 

Ở miền Nam bạn sẽ thường thấy các loại trái cây như: mãng cầu, dừa, đu đủ, xoài, sung, dừa, thơm,… đọc lai lái giống như “cầu vừa đủ xài” hay “cầu vừa đủ sung”. Do ngày càng đa dạng của loại trái cây cũng như điều kiện kinh tế phát triển nên người ta không còn quá cứng nhắc phải đúng 5 quả trên mâm có thể bát, cửu, thập quả đều được nhưng phải được bố trí đẹp mắt.

2.2. Cây nêu


Cây nêu là một cây tre cao khoảng 5–6 mét. Ở ngọn thường treo nhiều thứ (tùy theo từng địa phương) như vàng mã, bùa trừ tà, cành xương rồng, bầu rượu bện bằng rơm, hình cá chép bằng giấy (để táo quân dùng làm phương tiện về trời), giải cờ vải tây, điều (màu đỏ), đôi khi người ta còn cho treo lủng lẳng những chiếc khánh nhỏ bằng đất nung, mỗi khi gió thổi, những khánh đất va chạm nhau tại thành những tiếng kêu leng keng nghe rất vui tai...

Người ta tin rằng những vật treo ở cây nêu, cộng thêm những tiếng động của những khánh đất, là để báo hiệu cho ma quỷ biết rằng nơi đây là nhà có chủ, không được tới quấy nhiễu... Vào buổi tối, người ta treo một chiếc đèn lồng ở cây nêu để tổ tiên biết đường về nhà ăn Tết với con cháu. Vào đêm trừ tịch còn cho đốt pháo ở cây nêu để mừng năm mới tới, xua đuổi ma quỷ hoặc những điều không maỵ. Cây nêu thường được dựng vào ngày 23 tháng chạp, là ngày Táo quân về trời chính vì từ ngày này cho tới đêm Giao thừa vắng mặt Táo công, ma quỷ thường nhân cơ hội này lẻn về quấy nhiễu, nên phải trồng cây nêu để trừ tà. Ngày 7 tháng Giêng triệt hạ, gọi là "hạ nêu" phàm những khoản vay mượn thiếu thốn trong tiết ấy không được đòi hỏi, đợi ngày hạ nêu rồi mới được đòi hỏi.

2.3. Tranh tết


Tranh Tết từ lâu đã trở thành một tập quán, một thú chơi của người dân Việt Nam và không chỉ người có tiền mới chơi tranh mà người ít tiền cũng có thể chơi tranh. Nó là một phần không thể thiếu trong không gian của ngày Tết cổ truyền xưa kia. Những màu sắc rực rỡ như khơi gợi nên cảm giác mới mẻ ấm cúng rộn rã sắc xuân trong mỗi gia đình của người Việt.

2.4. Câu đối Tết

Để trang hoàng nhà cửa và để thưởng Xuân, trước đây từ các nho học cho tới những người bình dân "tồn cổ" vẫn còn trọng tục treo "câu đối đỏ" nhân ngày Tết. Những câu đối này được viết bằng chữ Nho (màu đen hay vàng) trên những tấm giấy đỏ hay hồng đào cho nên còn được gọi là câu đối đỏ.


Câu đối thuộc thể loại văn biền ngẫu, gồm hai vế đối nhau nhằm biểu thị một ý chí, quan điểm, tình cảm của tác giả trước một hiện tượng, một sự việc nào đó trong đời sống xã hội. Nên lưu ý là từ đối ở đây có nghĩa là ngang nhau, hợp nhau thành một đôi.

2.5. Hoa & Cây Tết

Ngoài hai loại hoa đặc trưng cho Tết là đào và mai, hầu như nhà nào cũng có thêm những loại hoa để thờ cúng và hoa trang trí. Hoa thờ cúng có thể như hoa vạn thọ, cúc, lay ơn, hoa huệ...; hoa để trang trí thì muôn màu sắc như hoa hồng, hoa thủy tiên, hoa lan, hoa thược dược, hoa violet, hoa đồng tiền... Ngoài ra, hoa hồng, cẩm chướng, loa kèn, huệ tây, lá măng, thạch thảo... cắm kèm sẽ tạo sự phong phú và mang ý nghĩa sum họp cho bình hoa ngày tết. Màu sắc tươi vui chủ đạo của bình hoa cũng ngụ ý cầu mong một năm mới làm ăn phát đạt, gia đình an khang và sung túc.

Hoa đào


Miền Bắc thường chọn cành đào đỏ để cắm trên bàn thờ hoặc cây đào trang trí trong nhà, theo quan niệm người Trung Quốc, đào có quyền lực trừ ma và mọi xấu xa, màu đỏ chứa đựng sinh khí mạnh, màu đào đỏ thắm là lời cầu nguyện và chúc phúc đầu xuân.

Hoa mai


Hoa Mai, với miền Nam nước Việt, nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới rất thích hợp môi trường cho hoa Mai đơm bông nảy mầm mỗi dịp Xuân về Tết đến. Miền Trung và miền Nam lại hay dùng cành mai vàng hơn miền Bắc, màu vàng tượng trưng cho sự cao thượng vinh hiển cao sang, màu vàng còn tượng trưng cho vua (thời phong kiến). Màu vàng thuộc hành Thổ trong Ngũ hành, theo quan điểm người Việt, Thổ nằm ở vị trí trung tâm và màu vàng được tượng trưng cho sự phát triển nòi giống. Đối với người miền Nam, nếu hoa Mai nở đúng vào lúc đón giao thừa hay nở vào sáng sớm ngày mùng một Tết thì điều đó có nghĩa là sự may mắn, thịnh vượng, và hạnh phúc sẽ đến với cả gia đình trong năm đó.

Cây quất


Tết đến, cây quất thường được trang trí tại phòng khách. Cây quất Tết ngày càng có nhiều kiểu dáng cầu kỳ nhưng vẫn phải bảo đảm sự xum xuê, lá xanh tốt, quả vàng chi chít thể hiện sự trù phú, hứa hẹn năm mới được mùa, ăn nên làm ra, dồi dào sức sống.


3. Những món ăn đặc trưng của Việt Nam trong dịp Tết nguyên đán

Thành ngữ Việt Nam có câu Đói giỗ cha, No ba ngày Tết. Tết đến, dù nghèo khó đến đâu thì người ta cũng cố vay mượn, xoay xở để có đủ ăn trong ba ngày Tết. Hơn thế nữa, dù có đói khát quanh năm thì đến Tết, mọi người mà nhất là trẻ em thường được ăn uống no đủ. Bữa ăn ngày Tết thường có nhiều món, đủ chất hơn và sang trọng hơn bữa ăn ngày thường. Vì vậy mà người ta cũng thường gọi là "ăn Tết".

Ẩm thực ngày Tết là nét văn hóa đặc trưng của người Việt Nam. Dưới đây là những món ăn không thể thiếu của Việt Nam trong dịp Tết nguyên đán.

Bánh chưng
Bánh chưng là loại bánh đặc trưng và điển hình nhất trong ngày Tết cổ truyền Việt Nam. Truyền thuyết và ý nghĩa của loại bánh này thì chắc ai cũng biết: “Gạo là thức ăn nuôi sống người, gạo nếp làm bánh hình tròn và hình vuông, để tượng trưng cho Trời Đất. Lá bọc ngoài, đặt nhân trong ruột để tượng hình cha mẹ sinh thành”.


Ý nghĩa này và các nguyên liệu để làm ra nó thấm đượm sự tinh tế, sâu sắc của tâm hồn Việt. Nguyên liệu chính để làm bánh là nếp, đậu xanh, thịt lợn, đặc trưng cho một nền kinh tế lúa nước nông nghiệp. Cách chế biến, gói, luộc bánh thể hiện tính cộng đồng cao. Cả nhà quây quần gói bánh, canh bánh trong không khí náo nứt của những ngày cận tết, thật là những ký ức khó quên.

Nguyên liệu để gói bánh chưng thường là lá dong tươi, chọn lá dong rừng bánh tẻ, to bản, đều nhau, không bị rách, màu xanh mướt. Gạo nếp nguyên liệu chính của món bánh được chọn lựa kỹ càng từ những loại nếp ngon thượng hạng hạt to, tròn dẻo đều, vừa mới thu hoạch mới tạo mùi vị thơm ngon cho bánh. Đậu xanh được lựa chọn công phu phải là loại hạt tròn, lòng vàng nguyên hạt thì bánh mới ngon và đẹp mắt. Thịt heo phải chọn thịt ba rọi để bánh không quá khô mà lại có vị béo đậm đà. Gia vị có các loại hạt tiêu, hành củ dùng để ướp thịt làm nhân, muối dùng để trộn vào gạo, đỗ xanh và ướp thịt. Đặc biệt thịt ướp không dùng nước mắm vì bánh sẽ chóng bị ôi, thiu.

Bánh sau khi gói sẽ đem luộc trong thời gian dài thường trên 10 tiếng, phải để lửa liu riu, bánh mới ngon. Khi lấy bánh ra các hạt gạo mềm nhừ, vị thơm bùi, béo của đỗ xanh và thịt chan hòa, ngấm vào nhau, trở  thành hương vị độc đáo mang một triết lý sống chan hòa, hòa đồng của dân tộc ta.

Bánh Tét của người miền tây

Nhớ quê nhớ tết ngọt ngào
Ơ thịt kho tàu nồi bánh tét xuân

Hiện diện như một nét văn hóa của miền Nam, từ thời khai hoang lập ấp những cư dân đầu tiên của vùng đất Nam Bộ nói chung và miền Tây nói riêng đã biết gói bánh tét bằng gạo lúa nổi để cúng tạ ơn trời đất, tạ ơn ông bà tổ tiên. Đối với người dân vùng đất phương Nam đòn bánh tét là thứ không thể thiếu được trong những ngày Tết cổ truyền. Với người dân miền Tây, bánh tét tượng trưng cho sự ấm no từ đời này qua đời khác.


 Cách làm bánh tét thì không phải nơi nào cũng giống nhau.Ở miền Tây bánh tét trở nên “đa sắc” hơn với bánh tét ngũ sắc, bánh tét lá dứa, bánh tét gấc, ra đảo Phú Quốc thì có bánh tét mật cật… Và góp phần vào sự phong phú đa dạng của bánh tét miền đất Tây Nam Bộ, người Cần Thơ có một loại bánh tét rất nổi tiếng là bánh tét lá cẩm.

Trong ba ngày tết bánh tét trở thành món chủ lực thay cơm, chỉ cần đĩa dưa món, kiệu, rau muống ngâm chua ngọt, vài khoanh bánh tét và dĩa thịt kho hột vịt đã thành bữa ăn ngon miệng. Hết ba ngày tết ngán vị nếp nấu dẻo ngậy, bà nội trợ sẽ chuyển sang món bánh tét chiên nóng giòn cũng hấp dẫn không kém.

Cứ thế hết tết, bánh tét hoàn thành sứ mạng của mình một cách vui tươi, đầm ấm bên mâm cúng ông bà, bữa cơm gia đình. Vì thế, từ bao năm qua người miền Tây dù có thế nào đi chăng nữa vẫn không bao giờ quên hương vị bánh tét trong những ngày đầu năm.

Đặc biệt đành riêng cho các ngày lễ quan trọng. Bánh tét về hình thức to nhỏ khác nhau, có đòn nặng chừng 200g, cá biệt lên tới 1kg thậm chí có những lễ hội lớn các nghệ nhân làm bánh tét nặng tới hàng trăm ký. Về nguyên liệu nhân bánh cũng rất đa dạng: nhân đậu đem, đậu xanh trộn đường, nhân thịt, nhân chuối…dành cho người ăn chay, bánh tét mặn thường có đậu xanh thịt mỡ, tôm khô thịt nạc…nói chung là từ tập quán, sản vật của địa phương nên cách chế biến có khác nhau chút ít theo thói quen khẩu vị.

Dưa món
Đây là món ăn khá phổ biến trong ngày Tết, và đi vào kho tàng ca dao "Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ. Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh" mỗi khi nhắc về ngày Tết. Trước hết, bạn cần lựa loại hành già, củ chắc, cắt bỏ phần đuôi chỉ chừa lại phần rễ. Sau đó, ngâm hành vào trong nước tro có pha hàn the trong khoảng thời gian 2 ngày 2 đêm. Tiếp theo, vớt hành ra, cắt bỏ rễ, lột vỏ chỉ còn lại khoảng 5cm rồi xếp hành vào khạp, rải muối, bỏ một lớp mía chẻ mỏng, rồi đến lớp hành gài lại bằng những vỉ tre. Sau 2 tuần, bạn có thể lấy hành ra cho vào keo thủy tinh, rồi nấu nước dấm đường để nguội cho vào. Khoảng 3 ngày là ăn được.

Nếu ở miền Nam thì có món dưa giá, cải chua và củ kiệu. Làm món dưa giá rất đơn giản, chỉ cần lựa giá cọng trắng, thon, dài, cà rốt thái sợi, hành hẹ cắt khúc tất cả trộn đều đem ngâm với nước ấm pha chút muối, đến ngày hôn sau là đã có món chua ăn kèm với thịt kho hay cuốn bánh tráng.


Món cải chua thì công phu hơn một tý, củ cải mua về cắt khúc vừa bằng nửa ngón tay phơi nắng cho héo, sau đó xếp vào keo cho hỗn hợp nước mắm đường theo tỷ lệ 2 mắm : 1 đường và một chút phèn chua để cải giòn. Để vài ngày cho cải thấm gia vị là ăn được.

Món củ kiệu là cầu kỳ nhất, kiệu phải ngâm trong nước tro một đêm cho bớt mùi hăng, sau đó lột vỏ, cắt rễ, phơi nắng cho héo, xếp kiệu vào keo cho giấm nấu tan với đường vào. Món kiệu chua này đặc biệt tốt cho tiêu hóa, kích thích vị giác giúp ăn ngon miệng hơn.

Miền Trung thì có món tôm chua Huế rất đặc trưng. Với nguyên liệu chính là tôm cùng với các gia vị như ớt, tỏi, gừng, riềng, muối. Tôm phải chọn loại vừa không lớn quá cũng không bé quá, cắt râu, rửa sạch để ráo, ngâm với rượu để khử mùi và tạo độ thơm thịt cho tôm. Ướp tôm với tất cả gia vị nêu trên cho vào lọ thủy tinh, gài thanh tre lại, đậy nắp, để nơi có nắng ấm độ 3 ngày rồi đưa vào nơi khô ráo và mát từ 5 đến 7 ngày, thế là đã có một lọ tôm chua đỏ hồng, thơm phức.

Miền Bắc thì có món dưa hành khá nổi tiếng, là một trong ba món ẩm thực không thể thiếu ngoài thịt mỡ và bánh chưng xanh như câu ca dao lưu truyền. Nguyên liệu chính là hành già, để vỏ cắt đuôi, chừa lại rễ, sau đó ngâm hành vào nước tro trong 2 ngày 2 đêm để chắc củ và cho hành bớt hăng. Tiếp theo, vớt hành ra, cắt bỏ rễ, lột vỏ rồi xếp hành vào khạp, rải muối, bỏ một lớp mía chẻ mỏng, rồi đến lớp hành, từng lớp như thế, cuối cùng gài lại bằng những vỉ tre. Sau 2 tuần, có thể lấy hành ra rửa bằng nước ấm rồi cho vào keo thủy tinh, cho nước dấm đường nấu sôi, để nguội vào. Khoảng 3 ngày là ăn được

Thịt đông
Nếu món thịt kho là  không thể thiếu trong mâm cơm ngày Tết ở các gia đình Nam Bộ thì món thịt đông là đặc trưng cho ngày Tết xứ Bắc. Thịt đông, dễ nấu và dễ ăn, cũng là thịt nhưng không quá ngấy, chế biến món này đơn giản không cầu kỳ như những món Tết truyền thống khác. Đơn giản là nấu thịt rồi để đông, nhưng có nhiều cách nấu với nhiều loại thịt, nguyên liệu, cách trình bày tùy thích.

Nguyên liệu chính có thể là thịt heo nạc chân giò, mọc, thịt gà đi kèm với nấm mèo, nấm đông cô, nấm rơm,cà rốt, củ cải, hành tây… Tùy ý thích người nấu, nhưng nguyên liệu không thể thiếu cho món thịt đông là da heo. Nguyên tắc để làm thịt đông được là nhờ vào chất gelatine có trong da heo. Để món đông ngon và không quá béo thì nên lạng sạch lớp mỡ nằm dưới da heo. Món đông mềm hay cứng là tùy thuộc vào lượng da heo nhiều hay ít.


Trong quá trình ninh thịt phải canh lửa và vớt bọt để nước được trong dù là thịt gà hay thịt heo. Nguyên tắc nêm nếm thịt đông là nêm lạt, chút muối, chút đường, tí tiêu là đủ tạo vị ngọt thanh của nước dùng.

Phần trình bày, đơn giản nhất là cho thành phẩm vào khay rồi để vào tủ lạnh nhưng với thời tiết lạnh xứ Bắc đã đủ làm nồi thịt đông rồi. Khi ăn lấy dao cắt miếng. Có thể cho vào từng chén nhỏ để tiện lấy ra ăn, kiểu cọ hơn, cho vào khuôn có hoa văn, hình dáng đẹp. Thịt đông ăn với dưa cải chua cùng cơm nóng bên chén nước mắm cay hít hà đủ làm ấm lòng cho những ngày xuân giá rét, thật đúng nghĩa Tết Bắc.

Giò chả 
Là món ăn phổ biến cho ngày tết bận rộn, khách đến nhà chỉ cần lấy miếng giò chả treo nơi góc bếp, cắt miếng vừa ăn, xếp ra đĩa cùng với dưa món, vậy là có món ngon, đơn giản đãi khách.

Có ba loại giò đặc trưng và phổ biến là giò lụa, giò bò và giò xào. Mỗi loại giò đều có một hương vị riêng nhưng điều quan trọng để món giò thực sự hấp dẫn là mùi thơm của lá chuối và vị nước mắm ngon quyện trong miếng giò.


Giò lụa làm từ thịt heo nạc loại ngon, thịt tươi, sờ còn ấm tay, đem giã liên tục đến khi thịt nhuyễn. Gia vị nêm vào phải chọn loại nước mắm ngon và thơm. Khi xắt ra, khoanh giò có màu trắng ngà, bề mặt có một vài lỗ rỗ mới là cây giò lụa ngon.

Giò bò có cách chế biến cũng như giò lụa nhưng nguyên liệu là thịt bò. Cây giò bò ngon khi xắt ra có màu hơi hồng của thịt bò, thêm mỡ trắng. Đặc biệt vị cay và mùi thơm của hạt tiêu làm dậy mùi thơm đặc trưng của miếng giò bò.

Giò xào hay còn gọi là giò thủ là món dễ làm và không tốn nhiêu công phu chế biến như 2 món giò trên. Nguyên liệu chính của giò xào là các bộ phận ở phần thủ con heo như: Tai, mũi lưỡi, má heo… và không thể thiếu mộc nhĩ. Các nguyên liệu được sơ chế sạch, trần qua nước sôi, xắt miếng mỏng, ướp gia vị, hạt tiêu rồi mới đem xào chín. Sau khi gói giò xong cho vào ngăn mát tủ lạnh, chất dính của nguyên liệu xào sẽ keo lại. Giò xào ngon là cây giò gói chặt tay, các nguyên liệu xào không bị khô vì xào quá tay, ăn sẽ giòn và có mùi thơm của gia vị.

Gà luộc  
Ngày tết là dịp gia đình sum họp nhưng cũng là dịp để hướng về nguồn cội, ông bà tổ tiên. Món gà luộc để cúng cho ngày cuối và đầu năm là không thể thiếu cho bất cứ mâm cỗ cúng Tết nào.

Đây là món đơn giản dễ làm, gà phải là loại gà ta thịt mới dai, không bở, chọn con vừa ăn không quá non cũng không quá già tầm chừng 1,3 kg. Cho gà vào nước luộc thêm tý hạt nêm cho thịt đậm đà. Để nước sôi vài dạo, da gà săn lại, dùng đũa xăm gà thấy không có nước hồng chảy ra là thịt đã chín.


Để gà luộc trông mộng, màu da tươi tắn thì sau khi vớt ra, nên nhúng ngay vào nồi nước sôi để nguội, nước lạnh càng tốt. Đến lúc gà nguội hẳn mới lấy ra đĩa. Nếu không, da gà sẽ bị khô và xỉn màu. Da gà vàng ươm, thịt thơm dai là món gà luộc đã đạt yêu cầu. Món gà luộc thường ăn chung với lá chanh, rau răm, hành tây, muối tiêu.

Các loại nem


Tết cũng là dịp các chỉ em phụ nữ trổ tài nội trợ khéo léo. Các món nem cũng rất được ưa chuộng từ nem cuốn, tới nem chua, nem tai, tré, nem phùng, ném nướng…Nem được làm chủ yếu từ thịt lên men có thính, có tỏi, ớt hoà quyện để lên men. Ai có bụng yếu thì không nên ăn những món từ thịt lên men. Nem ăn cùng với rau sống chăm nước mắm chanh tỏi ót thì tuyệt vời. Ở quê Doca tết đến nhà nào cũng gói đôi chục nem nướng, thịt đã lên men nhưng vẫn nướng qua bếp than hồng, ăn ngon và những đám cưới mùa lạnh hay có món này.

Măng khô


Măng khô ninh cùng xương heo, hoặc xương gà, ngan ngày tết vào mùa lạnh rất ngon. Càng ninh càng ngon và mùa lạnh để được lâu, bạn có thể ăn nhiều bữa mà ko lo bị ngán hay bị hỏng. Măng khô ngâm kĩ, còn xào với miến rong, nấm, thịt gà hoặc ngan xé ăn rất ngon.

Thịt kho và dưa giá


Thịt kho tàu với trứng gà, trứng vịt hay trứng cút là món mặn đặc trưng ăn với cơm vào mùa lạnh. Đây là món đặc trưng của người Nam Bộ.

Các gia đình miền Nam thường có thêm nồi thịt kho hột vịt nước dừa, khổ qua hầm và dưa giá miền Nam, củ kiệu ngâm, bánh tráng (để quấn) để ăn mấy ngày tết. Miền Bắc có cơm rượu và thịt đông, dưa hành và ngày trước có chè kho, mọc vân ám, thang ngày Tết, hiện nay ít được biết đến. Miền Trung có dưa món và món tré, giống giò thủ của miền Bắc nhưng nhiều vị củ riềng, thịt chua và tai heo. Thông thường, người nội trợ miền Nam lục tỉnh nghỉ ngơi, không nấu nướng trong 3 ngày Tết, mà chỉ dùng thức ăn đã được chuẩn bị sẵn trước Tết.

Ngoài những món ăn đặc trưng có thêm mứt, kẹo, bánh...
Mứt Tết và các loại bánh kẹo khác để thờ cúng, sau đó dọn ra để đãi khách. Mứt có rất nhiều loại như: mứt gừng, mứt bí, mứt cà chua, mứt táo, mứt dừa, mứt quất, mứt sầu riêng, mứt mít, mứt khoai, mứt hạt sen, mứt chà-là, mứt lạc, mứt me...

Kẹo bánh thì đa dạng hơn như: Kẹo bột, kẹo dồi, kẹo vừng (mè), kẹo thèo lèo, kẹo dừa, kẹo cau, kẹo đậu phụng (kẹo cu-đơ), bánh chè lam... Ngoài ra, Tết còn có hạt dưa, hạt bí, hạt hướng dương, hạt điều, hạt dẻ rang...

4. Những ngày đầu năm theo 12 con giáp

Trong bảng này tính các năm từ 1996 đến 2067. Theo quy luật của bảng dưới, cứ 2 hoặc 3 năm thì có một năm Tết rơi vào tháng 1, còn lại là tháng 2.



5. Cúng ông Táo

Hằng năm, mỗi khí chuẩn bị khép lại một mùa đông lạnh giá, đi đến một mùa xuân ấm áp, vào ngày 23 tháng Chạp âm lịch là mọi căn bếp trong gia đình cũng sẽ ấm lửa hồng và bày biện mâm cúng để tiễn ông Táo cưỡi cá chép về trời.

Tuy nhiên, do nhiều yếu tố quy định như kinh nghiệm, độ tuổi, phong tục tập quán mà mỗi nơi có một cách chuẩn bị mâm cỗ khác nhau. Sau đây xin giới thiệu với bạn đọc cách chuẩn bị mâm cỗ và bài khấn trong Tết Ông Công Ông Táo.

5.1. Sự tích Táo Quân

Táo Quân trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam có nguồn gốc từ ba vị thần Thổ Công, Thổ Địa, Thổ Kỳ của Lão giáo Trung Quốc nhưng được Việt hóa thành huyền tích "2 ông 1 bà" - vị thần Đất, vị thần Nhà, vị thần Bếp núc. Tuy vậy người dân vẫn quen gọi chung là Táo Quân hoặc Ông Táo. Bếp là bản nguyên của nhà khi người nguyên thủy có lửa và đều dựa trên nền móng là đất.

Ở Việt Nam, sự tích Táo Quân được truyền khẩu, rồi ghi chép, do đó có những sự khác nhau về tình tiết, nội dung chính được tóm tắt như sau :

Trọng Cao có vợ là Thị Nhi ăn ở với nhau đã lâu mà không con, nên sinh ra buồn phiền, hay cãi cọ nhau. Một hôm, Trọng Cao giận quá, đánh vợ. Thị Nhi bỏ nhà ra đi sau đó gặp và bằng lòng làm vợ Phạm Lang. Khi Trọng Cao hết giận vợ, nghĩ lại mình cũng có lỗi nên đi tìm vợ. Khi đi tìm vì tiền bạc đem theo đều tiêu hết nên Trọng Cao đành phải đi ăn xin.

Khi Trọng Cao đến ăn xin nhà Thị Nhi, thì hai bên nhận ra nhau. Thị Nhi rước Trọng Cao vào nhà, hai người kể chuyện và Thị Nhi tỏ lòng ân hận vì đã trót lấy Phạm Lang làm chồng.

Phạm Lang trở về nhà, sợ chồng bắt gặp Trọng Cao nơi đây thì khó giải thích, nên Thị Nhi bảo Trọng Cao ẩn trong đống rơm ngoài vườn. Phạm Lang về nhà liền ra đốt đống rơm để lấy tro bón ruộng. Trọng Cao không dám chui ra nên bị chết thiêu. Thị Nhi trong nhà chạy ra thấy Trọng Cao đã chết bởi sự sắp đặt của mình nên nhào vào đống rơm đang cháy để chết theo.

Phạm Lang gặp tình cảnh quá bất ngờ, thấy vợ chết không biết tính sao, liền nhảy vào đống rơm đang cháy để chết theo vợ.

Linh hồn của ba vị được đưa lên Thượng Đế. Thượng Đế thấy ba người đều có nghĩa, nên sắc phong cho làm Táo Quân, gọi chung là: Định Phúc Táo Quân, nhưng mỗi người giữ một việc :
- Phạm Lang làm Thổ Công, trông coi việc bếp. Danh hiệu: Đông Trù Tư Mệnh Táo Phủ Thần Quân
- Trọng Cao làm Thổ Địa, trông coi việc nhà cửa. Danh hiệu: Thổ Địa Long Mạch Tôn Thần
- Thị Nhi làm Thổ Kỳ, trông coi việc chợ búa. Danh hiệu: Ngũ Phương Ngũ Thổ Phúc Đức Chánh Thần.


5.2. Mâm cỗ chung

Ở Việt Nam, từ xa xưa truyền lại rằng, ba vị Thần Táo định đoạt phước đức cho gia đình, phước đức này do việc làm đúng đạo lý của gia chủ và những người trong nhà. Bàn thờ thường đặt gần bếp, cho nên còn được gọi là Vua Bếp. Hàng năm, đúng vào ngày 23 tháng Chạp là ngày Táo Quân sẽ lên thiên đình để báo cáo mọi việc lớn nhỏ trong nhà của gia chủ với Thượng Đế (hay ông Trời), nên có nơi gọi ngày này là Tết ông Công.


Vị Táo Quân quanh năm chỉ ở trong bếp, biết hết mọi chuyện trong nhà, cho nên để Vua Bếp "phù trợ" cho mình được nhiều điều may mắn trong năm mới, người ta thường làm lễ tiễn đưa ông Táo về chầu Trời rất trọng thể.

Lễ vật cúng Táo Quân gồm có mũ ông Công ba cỗ hay ba chiếc : hai mũ đàn ôngmột mũ đàn bà. Mũ dành cho các ông Táo thì có hai cánh chuồn, mũ Táo bà thì không có cánh chuồn. Những mũ này được trang sức với các gương nhỏ hình tròn lóng lánh và những giây kim tuyến màu sắc sặc sỡ. Để giản tiện, cũng có khi người ta chỉ cúng tượng trưng một cỗ mũ ông Công (có hai cánh chuồn) lại kèm theo một chiếc áo và một đôi hia bằng giấy.

Những đồ "vàng mã" này (mũ, áo, hia và một số vàng thoi bằng giấy) sẽ được đốt đi sau lễ cúng ông Táo vào ngày 23 tháng Chạp cùng với bài vị cũ. Sau đó người ta lập bài vị mới cho Táo Công.


5.3. Một mâm cỗ mặn cúng ông Táo thường thấy nhất

- 1 đĩa gạo
- 1 đĩa muối
- 5 lạng thịt vai luộc
- 1 bát canh mọc
- 1 đĩa xào thập cẩm
- 1 đĩa giò
- 1 con cá chép rán (hoặc cá chép sống)
- 1 đĩa xôi gấc
- 1 đĩa chè kho
- 1 đĩa hoa quả
- 1 ấm trà sen
- 3 chén rượu
- 1 quả bưởi
- 1 quả cau, lá trầu
- 1 lọ hoa đào nhỏ
- 1 lọ hoa cúc
- 1 tập giấy tiền, vàng mã

Có bà nội trợ thay thịt vai luộc bằng một con gà luộc ngậm hoa hồng hoặc chủ động thay đổi các món canh như canh măng, canh mọc, canh bóng...gà luộc ngậm hoa hồng hay ớt đỏ tỉa hoa và chuẩn bị những món hơi khác nhưng cũng vẫn giữ được tính truyền thống và bản sắc như: bánh chưng gấc, xôi vò, xôi chè, thịt đông, nem rán, cá kho riềng, trám hoặc thịt kho tàu, giò xào, giò nạc, món xào, canh măng, hành muối, gia vị mắm muối, trà, rượu, hoa , trầu cau.

Thời nay các bà nội trợ bận rộn cũng không phải lo nghĩ nhiều và mất công làm tất cả các món ăn trên, đa số các món trong mâm cúng như: bánh chưng, giò, nem thì đã có bán sẵn, còn thịt đông, cá kho, hành muối làm từ trước hoặc thậm chí cũng có thể mua sẵn, đến đúng hôm đó thì chỉ cần luộc gà, nấu canh, làm món xào nóng là xong.

Cúng ông Táo phải đặt trong bếp, khi cúng phải bật bếp lên cho cháy rực, mâm cỗ đề huề, cả nhà quanh năm no ấm. Có người thì vừa đặt một mâm cúng trong bếp và thêm một mâm khác cúng trên bàn thờ.


5.4. Văn khấn ông Công, ông Táo

Nam mô A-Di-Đà Phật (3 lần)

Kính lạy ngài Đông Trù Tư Mệnh Táo Phủ Thần Quân

Tín chủ chúng con là:....

Ngụ tại số nhà ........, đường/phố ...., ấp/khu phố ............, xã/phường/thị trấn ......., huyện/quận/thành phố/thị xã ........, tỉnh/ thành phố .........

Nhân ngày 23 tháng Chạp, tín chủ chúng con thành tâm sắm sửa hương hoa phẩm vật, xiêm hài áo mũ, dâng lên trước án, hiến cúng tôn thần, đốt nén tâm hương, chí thành bái thỉnh.

Chúng con kính mời:

Ngài Đông Trù Tư Mệnh Táo Phủ Thần Quân giáng lâm trước án thụ hưởng lễ vật.

Phong theo lệ cũ, Ngài là vị chủ, ngũ tự gia thần, soi xét lòng trần, Táo Quân chứng giám.

Trong năm sai phạm các tội lỗi lầm, cúi xin tôn thần gia ân châm chước, ban lộc ban phúc, phù hộ toàn gia: trai, gái, trẻ, già, an ninh khang thái.

Dãi tấm lòng thành cúi xin chứng giám.

Cẩn cáo.


6. « Múa lân » : môn nghệ thuật dân gian


Hòa quyện giữa truyền thống và tâm thức, múa lân từ lâu đã trở thành một thành tố không thể thiếu vắng trong các lễ hội dân gian và các hoạt động hiếu hỉ hiện đại. Múa lân tự bao giờ, đã là một thứ nghệ thuật kết hợp hài hòa giữa công phu thâm hậu của võ thuật, sự chính xác uyển chuyển của một vận động viên thể dục dụng cụ, sự khéo léo, cẩn trọng của một nghệ nhân và sâu xa hơn cả, là chiều sâu của một hoạt động văn hóa chưa bao giờ mai một…


Múa Lân là một môn nghệ thuật dân gian có nguồn gốc từ Trung Hoa. Theo dấu chân của những người Hoa lập nghiệp trên vùng đất mới trong đó có Việt Nam. Nghệ thuật biểu diễn múa lân thường xuất hiện trong những dịp lễ hội, đặc biệt là Tết Trung Thu và Tết Nguyên đán hàng năm. Vì theo quan niệm chung của người Á Đông, con lân tượng trưng cho sự thịnh vượng, phát đạt và  hạnh phúc. Lân được xem llà một thánh vật đứng hàng thứ nhì trong bộ tứ linh (long, lân, quy, phụng). Đặc biệt trong đoàn múa lân luôn có một nhân vật “tai to, mặt lớn, bụng phệ, miệng cười ngoác tận mang tai” một tay cầm cây gậy có quả cầu trên đỉnh, một tay phe phẩy cái quạt mo là ông Địa. Vẻ mơn trớn, bông lơn, ngớ ngẩn của ông Địa làm cho đám múa lân càng thêm phần nhộn nhịp, không khí Tết nhất, lễ hội thêm phần ý vị.


Truyền thuyết kể rằng, ngày xưa, có một thầy thuốc nhân hậu, vui tính, suốt ngày đi lên non, xuống biển tìm thảo dược để trị bệnh cho bá tánh. Một hôm, ông tình cờ hái được cây tiên thảo linh chi có tác dụng trường sinh bất lão. Nhà vua biết được tin này liền đòi ông tiến cung dâng lễ vật và sẽ được ban cho vinh hoa phú quý nhưng ông không đồng ý mà bỏ làng trốn đi biệt tích. Nhiều năm sau, vào tháng chạp âm lịch (tức tháng 12) có một con quái vật hình thù quái dị, rất hung hãn, có sức mạnh kinh hoàng từ biển lên bờ, ăn gia súc của người dân trong làng rồi trở về biển. Ông thầy thuốc nghe tin này liền trở về làng tìm hiểu sự việc và tìm cách dẫn dụ con quái vật lên rừng cho ăn tiên thảo linh chi để từ đó biến nó thành một con vật huyền thoại hiền lành gọi là con lân. Người đã thuần hóa được lân chính là ông Địa. Sau này, cứ mỗi khi năm hết, tết đến, ông Địa lại cùng lân về làng mang lại điều may mắn, chúc cho mọi gia đình được hạnh phúc vui vẻ, an khang thịnh vượng.


Xưa kia, lân chỉ múa trên mặt đất, ngày nay lân còn múa trên các giàn sắt cao với nhiều động tác cực kỳ ngoạn mục. Từ múa lân, nhiều nơi còn tạo dựng thành múa sư tử, múa rồng. Ở Việt Nam những năm gần đây, Hội thi múa lân trong dịp rằm tháng tám được tổ chức rất tưng bừng tại nhiều địa phương, cơ quan, đơn vị. Những con lân được trang trí rất đẹp mắt, nhảy múa theo kịch bản với sự luyện tập hết sức công phu khó nhọc. Và không chỉ trung thu, bây giờ người ta còn tổ chức múa lân trong các dịp hội hè, tế lễ, khai trương cửa hàng, cửa hiệu… Cũng có nơi tổ chức múa lân mừng năm mới, với các bài múa mang ý nghĩa cầu chúc an khang thịnh vượng.


7. Bình luận "Tết Nguyên Đán theo Dương lịch"

Trên mạng vừa qua đã diễn ra cuộc tranh luận tết Ta – tết Tây đến mức có nhiều ý kiến gây căng thẳng, thậm chí nặng lời bài bác giáo sư này, tiến sỹ nọ, sử gia kia chỉ vì ý kiến rằng ta có nên ăn Tết Nguyên Đán theo Dương lịch thay tết âm lịch không. Ý kiến đã nêu lên những bất lợi của Tết Nguyên Đán rằng :
  1. Vừa giữ được các tập quán Tết cổ truyền, vừa ít bỏ lỡ cơ hội nắm bắt đối tác kinh doanh, giao thương với nước ngoài. 
  2. Ít mất thời giờ của nông dân dành chăm sóc lúa đông-xuân, vụ lúa tiềm năng cao nhất trong năm. 
  3. Học sinh và sinh viên có thời khóa biểu học tập và thi học kỳ một cách hợp lý, không gượng ép nghỉ theo âm lịch, do đó không phí thời gian học hành.
  4. Giám tối thiểu tình trạng dân chúng nhậu nhẹt, bài bạc dưới nhiều hình thức, rất tốn kém tiền của và thời gian học tập, tổn hại sức khỏe và tính mạng trong giao thông.
  5. Chấm dứt lãng phí nhiều ngày làm việc mà mình nghỉ, trong khi quốc tế làm việc.
Trái lại, có rất nhiều ý kiến phản đối gay gắt đề xuất này và cho rằng nếu thay đổi như vậy thì sẽ gây nên sự mất mát rất lớn về văn hóa thiêng liêng, cổ truyền của dân tộc bởi Tết Nguyên Đán đã ăn sâu trong tâm thức của người dân. Dịp Tết chính là dịp để người thân sum họp sau một năm xa cách. Dịp Tết là dịp để gìn giữ, phát huy văn hóa cổ truyền của dân tộc.

Trước đây, Nhật Bản ăn Tết theo Âm lịch nhưng đã bắt đầu chuyển sang Tết theo Dương lịch kể từ năm 1873. Và như chúng ta đã thấy, hiện nay Nhật Bản đang là quốc gia hàng đầu thế giới. Vậy Việt Nam có nên học tập điều này?

Việc kết hợp Tết Âm lịch với Tết Dương lịch chúng ta có thể biết đến rõ nhất là hình mẫu của Nhật Bản. Vào thời Minh Trị Duy tân, họ đã có sự hành xử hết sức dứt khoát, người Nhật gần như chỉ tập trung chủ yếu vào Tết Tây. Với Tết Âm truyền thống chỉ còn được duy trì giới hạn trong phạm vi gia đình.

Tuy nhiên thời đại lúc đó và bây giờ khác nhau hoàn toàn nên không thể áp dụng. Vào thời điểm đó Nhật Bản coi châu Âu là hình mẫu để phát triển, tận dụng văn minh phương Tây, loại bỏ dần những điểm lỗi thời của nền văn minh phương Đông. Khi ấy Nhật Bản không còn con đường nào khác, buộc phải thay đổi để phát triển.

Nói tóm lại, việc ăn "Tết Nguyên Đán theo Dương lịch" thay tết âm lịch không thể áp dụng vào Việt Nam ở thời điểm hiện tại.