jeudi 18 décembre 2014

PHONG TỤC : Lễ Giáng Sinh


Trương Thanh Long
Sưu tầm - Biên soạn - Bình Luận


Chúng ta đã bước vào tháng 12 với những nhộn nhịp của Mùa Giáng Sinh. Người ta chen chúc nhau mua sắm và nhìn vào mức độ mua sắm để đo lường sự phát triển hay suy thoái của nền kinh tế. Riêng bạn nhìn thấy gì trong Mùa Giáng Sinh? Có bao giờ bạn tự hỏi vậy ý nghĩa của những hình ảnh quen thuộc như cây thông Noel, ngôi sao giáng sinh, vòng lá mùa vọng hay cây kẹo gậy ?



Mùa giáng sinh về len lỏi trong các con phố, len lỏi trong từng ngõ ngách, từng hơi thở của cuộc sống. Trải dài khắp Việt Nam và trên toàn thế giới, tháng 12 đâu đâu cũng rộn ràng bởi những khúc ca vui nhộn và ngập tràn màu sắc của ông già Noel, của tuyết phủ trắng xóa, của những nhánh cây thông xanh rực rỡ… Ngừng lại với vòng quay hối hả của những ngày cuối cùng của năm cũ, có bao giờ bạn tự hỏi vậy ý nghĩa của những hình ảnh quen thuộc này?


Nguồn gốc lễ Giáng Sinh

Lễ Giáng sinh, còn được gọi là lễ Thiên Chúa giáng sinh, Nô-el, hay Nô-en (từ tiếng Pháp Noël, là viết tắt từ gốc Em-ma-nu-el, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta) là một ngày lễ quốc tế kỷ niệm ngày Chúa Giê-su sinh ra đời của phần lớn người Cơ Đốc giáo (thuật ngữ Hán-Việt) hay Kitô giáo (thuật ngữ phiên âm). Họ tin là Giê-su được sinh tại Bethlehem thuộc tỉnh Judea của Đế quốc La Mã giữa năm 6 TCN và năm 6.


Một số nước ăn mừng ngày này vào 25 tháng 12, một số nước lại vào tối ngày 24 tháng 12. Tuy nhiên, những người theo Chính Thống giáo Đông phương (Orthodoxe) vẫn sử dụng lịch Juliêng để định ngày này, cho nên họ tổ chức lễ Giáng sinh vào ngày 7 tháng 1 theo lịch Gregory.

Nguyên thủy, lễ giáng sinh là của những người theo đạo Kitô giáo, nhằm kỷ niệm ngày sinh ra của người lãnh đạo tôn giáo mình, người mà họ cho là Thiên Chúa xuống thế làm người. Nhưng dần dần, theo thời gian và qua các lễ hội của phương Tây, người ta tổ chức lễ Giáng sinh ngày càng linh đình. Kết quả là bây giờ, lễ Giáng sinh được xem là một ngày lễ quốc tế, với ông già No-el, cây Giáng sinh và cây thông no-el.


Ý nghĩa lễ Giáng Sinh

Ngoài ý nghĩa theo đạo Thiên Chúa, Noel là một ngày lễ gia đình, một ngày đặc quyền để tụ tập quây quần mọi người, mọi thế hệ trong gia đình. Lễ này dưới mọi hình thức được biểu lộ, tạo những kỷ niệm chung và duy trì tình cảm giữa mọi người trong gia đình. Mỗi người tìm được, bằng cách thức riêng của mình, để tạo dựng mối liên hệ : chia sẻ với nhau một bữa ăn chung, một đêm không ngủ, nghe thuật lại một câu chuyện, quây quần bên cạnh cây sa pin Noël… Với địa vị ngày càng lớn lao của trẻ con trong gia đình, ngày Noel trở thành một buổi lễ của trẻ em : một đêm thần diệu mà hầu như tất cả mọi ước nguyện trẻ con được thành sự thật trong sự sung sướng của những người lớn.

Ngày Noel cũng là một thông điệp của hoà bình : « Vinh danh Thượng Đế trên cao – Bình an cho người dưới thế » : đây là câu được hát bởi những thiên thần báo tin sự xuất hiện của vị cứu thế và Noel cũng là ngày người ta chia sẻ với những ai bị bỏ rơi, bị cô đơn, bệnh hoạn, già yếu…


Cây thông Noel

Vào mùa đông, trong khi mọi cây cối đều héo rũ thì riêng mình cây thông vẫn xanh tươi. Chính bởi vậy, người cổ đại đã coi thông là loại cây phục sinh. Để có sự hoà hợp con người và thiên nhiên, hơn 500 năm trước trong mùa Giáng sinh, người ta dùng thông làm cây Christbaum, thông xanh tươi, có mùi thơm màu xanh biểu tượng cho sự sống nên mang đến ánh sáng hy vọng. Vào ngày đông chí, họ trang trí cây thông với trái cây, hoa và lúa mỳ.


Lần đầu tiên cây thông được biết đến như loại cây của ngày lễ Noel là ở Đức. Trước đây, người Đức cho rằng cây sồi là cây Thánh. Tuy nhiên Boniface (sinh vào năm 680) đã thuyết phục được các đạo sỹ không tin vào điều đó bằng cách cho đốn một cây sồi. Khi cây sồi đổ, nó đè bẹp mọi vật nằm dưới đường đổ của nó, trừ một cây thông nhỏ. Cây thông trở thành cây của Chúa Jesus.

Bởi vậy mà vào lễ Noel, người Đức đã từng có truyền thống trồng những cây thông nhỏ. Thời Trung đại, trong nhiều lễ hội tại Ðức đều xuất hiện cây thông. Dần dần hình ảnh của loài cây này xuất hiện thường xuyên hơn và nó được coi là trung tâm của lễ hội, nơi mọi người cùng nắm tay nhau nhảy múa xung quanh cây thông được trang trí công phu.

Đến thế kỷ thứ 11, cây thông Noel còn được coi là cây thiên đường. Điều này giải thích lý do vì sao mà người ta còn treo thêm lên cây những trái táo đỏ, để gợi lại hình ảnh trái cấm của Adam và Eva. Đến thế kỷ 14, cây thông Noel được gắn thêm ngôi sao ở trên đỉnh cây. Đây chính là biểu tượng của ngôi sao Bethleem chiếu sáng trên bầu trời khi chúa hài nhi ra đời. Ngôi sao này đã dẫn đường cho ba vị thần cư ngụ ở phương đông: Gaspard, Melchior và Balthasar đến gặp chúa. Đã từng có giả thuyết khoa học cho đó chính là sao chổi Halley.


Chuông thánh đường


Tại đất nước Tây Ban Nha, các chuông nhà thờ ngân vang vào lúc nửa đêm báo hiệu Chúa ra đời. Trong một số nền văn hóa Á Châu, tiếng chuông được dùng báo hiệu cho quần chúng biết một việc vui hay một sự kiện buồn nào đó vừa xảy đến. Ở những quốc gia Tây phương, tiếng chuông rung lên chào mừng Chúa Cứu thế xuống trần.


Ngôi sao Noel

Ngôi sao trong lễ Giáng sinh có ý nghĩa đặc biệt. Theo tương truyền, lúc Chúa vừa chào đời thì trên trời xuất hiện một ngôi sao rực rỡ. Ánh sáng tỏa ra mấy trăm dặm. Từ các vùng phía đông xa xôi nay thuộc lãnh thổ Iran và Syria, có 3 vị vua được mặc khải tin rằng cứ lần theo ánh sáng ngôi sao tìm tới chắc chắn sẽ gặp phép lạ gọi là lễ ba vua. Từ đó, ba vị tìm theo sự dẫn đường của ánh sáng để đến được hang đá thành Bethelem nơi Chúa đã ra đời. Ba vị này quỳ trước mặt Chúa, dâng lên Chúa các phẩm vật trầm hương, mộc dược và vàng bạc châu báu.


Ngôi sao trở thành biểu trưng ý nghĩa trong mùa Giáng sinh và được treo chỗ trang trọng nhất ở các giáo đường, cơ sở tôn giáo trong đêm Giáng sinh để nhớ đến sự tích trên. Ngôi sao còn tượng trưng cho phép lạ của Thượng đế.


Cây kẹo gậy

Vào năm 1800, một người làm kẹo ở Ấn Độ muốn biểu đạt ý nghĩa của lễ Giáng sinh qua một biểu tượng được làm bằng kẹo. Ông thực hiện ý tưởng của mình bằng cách uốn cong một trong những thỏi kẹo thành hình một chiếc gậy kẹo.


Qua cây gậy kẹo của mình, ông đã kết hợp những biểu tượng thể hiện tình yêu và sự hy sinh của Chúa Jesus. Màu trắng biểu hiện cho sự trong trắng và vô tội của Chúa Jesus. Sau đó, ba sọc nhỏ tượng trưng cho những đau đớn mà Ðức Chúa đã phải chịu trước khi ngài chết trên cây thập tự giá.

Ba sọc đó còn biểu hiện ba ngôi thiêng liêng của Chúa (sự hợp nhất của Cha, Con và Thánh thần). Ông thêm vào một sọc đậm để tượng trưng cho máu mà Chúa đã đổ cho loài người. Khi nhìn vào cái móc của cây gậy, ta thấy nó giống hệt cây gậy của người chăn cừu vì Chúa Jesus chính là người chăn dắt con người. Nếu bạn lật ngược cây gậy, nó sẽ trở thành chữ J tượng trưng cho chữ cái đầu tiên của tên Chúa Jesus.


Vòng lá mùa vọng

Theo những người Thiên chúa giáo, vòng lá mùa vọng được kết bằng lá xanh thường được đặt trên bàn hay treo lên cao để mọi người có thể dễ dàng nhìn thấy. Vòng lá có hình tròn nói lên tính cách vĩnh hằng và tình yêu thương vô tận của Thiên chúa.


Theo đúng nghi thức của những người Thiên chúa giáo, trên vòng lá mùa vọng sẽ cồn 4 cây nến bao gồm 3 cây màu tím, màu của mùa vọng, cây thứ 4 là màu hồng là màu của Chúa nhật thứ ba mùa vọng.


Ngày nay, với sự phổ biến của Giáng sinh trên khắp thế giới, vòng lá mùa vọng này đã dần thay đổi so với ý nghĩa ban đầu. Những ngày này, ra đường bạn có thể dễ dàng bắt gặp hình ảnh của những vòng hoa nguyệt quế (vòng hoa mùa vọng) như là một biểu tượng của Giáng sinh.


Vài hàng về Tết Dương lịch

Tại Việt Nam, cũng bắt nguồn từ thời Pháp thuộc, khi đó lịch Tây bắt đầu được sử dụng, các công sở lúc đó được nghỉ những ngày này để tổ chức lễ hội đón năm mới - thường được tính bắt đầu từ lễ Giáng sinh.

Tết Dương lịch hay còn gọi là Tết Tây là một trong những ngày lễ quan trọng trong năm của nhiều dân tộc trên thế giới. Tết này là ngày đầu tiên hàng năm theo dương lịch, loại lịch hiện được dùng phổ biến tại Việt Nam, tuy âm lịch vẫn còn được dùng trong các lễ hội, giỗ, tết hay sự kiện văn hóa cổ.


Bắt nguồn từ phương Tây, ở thời La Mã và Hy Lạp, họ biết làm lịch, đã tạo ra Dương lịch.

Tết Dương lịch đã được Việt hóa và trở thành một ngày lễ truyền thống. Ngày này được nhà nước cho phép nghỉ ngơi và tổ chức nhiều lễ hội liên quan. Đây cũng là một dịp để mọi người có thể đi chơi, thăm hỏi, gặp gỡ nhau hoặc tổ chức đi du lịch...


Chúc bạn một mùa Giáng sinh vui và một năm mới hạnh phúc.
Je vous souhaite un joyeux Noël et une bonne et heureuse année.
Wish you a happy Christmas and a happy new year.


dimanche 7 décembre 2014

BLOG : Tiếng Việt qua 2 miền Nam-Bắc


Trương Thanh Long
Sưu tầm - Biên soạn - Bình Luận


Ngôn ngữ là công cụ người ta dùng để biểu đạt ý nghĩa và tình cảm của mình đối với người khác, qua đó để người ta hiểu nhau. Nó có thể cấu tạo bởi hình thức biểu ý, cũng tức là âm thanh - tiếng nói, nét mặt hoặc là điệu bộ bằng tay. Tài liệu dưới đây cho thấy nhiều từ ngữ vui cười của hai miền Nam-Bắc.

Sau ngày Việt Nam thống nhất ngày 30 tháng 4 năm 1975, miền Nam thực sự bước vào sự thay đổi ngôn ngữ. Thể chế chính trị thay đổi, kéo theo xã hội, đời sống, văn hoá và cùng với đó, ngôn ngữ cũng thay đổi. Miền Bắc thay đổi không kém gì miền Nam. Tiếng Việt miền Bắc đã chịu sự thâm nhập của một số ít ngữ vựng miền Nam. Người dân miền Nam tập làm quen và dùng nhiều từ ngữ mà trước đây họ không bao giờ biết tới. Những: đề xuất, bồi dưỡng, kiểm thảo, sự cố, hộ khẩu, căn hộ, ùn tắc, ô to con, xe con, to đùng, mặt bằng, phản ánh, bức xúc, tiêu dùng, tận dụng tốt, đánh cược, chỉ đạo, quyết sách, đạo cụ, quy phạm, quy hoạch, bảo quản, kênh phát sóng, cao tốc, doanh số, đối tác, thời bao cấp, chế độ bao cấp, chế độ xem, nâng cấp, lực công, nền công nghiệp âm nhạc, nhà cao tầng, đáp án, từ vựng, hội chứng, phân phối, mục từ, kết từ, đại từ, nghệ sĩ ưu tú, nghệ sĩ nhân dân,v.v...dần dà đã trở thành những từ ngữ quen thuộc trong đời sống hàng ngày của người dân miền Nam.


Song song với việc thống nhất đất nước, Việt Nam đã thống nhất hoá tiếng Việt. Cuối năm 1979, đầu năm 1980, Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam đã phối hợp với Viện Khoa học Giáo dục tổ chức một số cuộc hội thảo về vấn đề chuẩn hoá tiếng Việt. Bộ Giáo dục cũng thông qua một số quy định về chính tả trong sách giáo khoa cải cách giáo dục. Ngày 01 tháng 7 năm 1983, Quyết nghị của Hội đồng chuẩn hoá chính tả và Hội đồng chuẩn hoá thuật ngữ đã được ban hành và áp dụng cho các sách giáo khoa, báo và văn bản của ngành giáo dục.

Khi tiếng Việt được thống nhất và chuẩn hoá, toàn quốc sử dụng chung một thứ ngôn ngữ theo một tiêu chuẩn, mẫu mực nhất định. Những từ ngữ thông dụng miền Nam ngày xưa mất dần dần. Những từ ngữ thông dụng khác như ghi danh, đi xem đã bị thay thế bằng đăng ký, tham quan.

Bắc bảo Kỳ, Nam kêu Cọ (gọi là Kỳ Cọ)
Bắc gọi lọ, Nam kêu chai
Bắc mang thai, Nam có chửa
Nam xẻ nửa, Bắc bổ đôi

Ôi ! Bắc quở Gầy, Nam than Ốm
Bắc cáo Ốm, Nam khai Bịnh
Bắc định đến muộn, Nam liền la trễ
Nam mần Sơ Sơ, Bắc nàm Lấy Lệ

Bắc lệ tuôn trào, Nam chảy nước mắt
Nam bắc Vạc tre, Bắc kê Lều chõng
Bắc nói trổng Thế Thôi, Nam bâng quơ Vậy Đó
Bắc đan cái Rọ, Nam làm giỏ Tre,

Nam không nghe Nói Dai, Bắc chẳng mê Lải Nhải
Nam Cãi bai bãi, Bắc Lý Sự ào ào
Bắc vào Ô tô, Nam vô Xế hộp
Hồi hộp Bắc hãm phanh, trợn tròng Nam đạp thắng

Khi nắng Nam mở Dù, Bắc lại xoè Ô
Điên rồ Nam Đi trốn, nguy khốn Bắc Lánh mặt
Chưa chắc Nam nhắc Từ từ, Bắc khuyên Gượm lại
Bắc là Quá dại, Nam thì Ngu ghê

Nam Sợ Ghê, Bắc Hãi Quá
Nam thưa Tía Má, Bắc bẩm Thầy U
Nam nhủ Ưng Ghê, Bắc mê Hài Lòng
Nam chối Lòng Vòng, Bắc bảo Dối Quanh

Nhanh nhanh Nam bẻ Bắp, hấp tấp Bắc vặt Ngô
Bắc thích cứ vồ, Nam ưng là chụp
Nam rờ Bông Bụp, Bắc vuốt Tường Vi
Nam nói: mày đi ! Bắc hô: cút xéo.

Bắc bảo: cứ véo ! Nam : ngắt nó đi.
Bắc gửi phong bì, bao thơ Nam gói
Nam kêu: muốn ói, Bắc bảo: buồn nôn !
Bắc gọi tiền đồn, Nam kêu chòi gác

Bắc hay khoác lác, Nam bảo xạo ke
Mưa đến Nam che, gió ngang Bắc chắn
Bắc khen giỏi mắng, Nam nói chửi hay.
Bắc nấu thịt cầy, Nam thui thịt chó.

Bắc vén búi tó, Nam bới tóc lên
Anh Cả Bắc quên, anh Hai Nam lú
Nam : ăn đi chú, Bắc: mời anh xơi !
Bắc mới tập bơi, Nam thời đi lội.

Bắc đi phó hội, Nam tới chia vui
Thui thủi Bắc kéo xe lôi, một mình xích lô Nam đạp
Nam thời mập mạp, Bắc cho là béo
Khi Nam khen béo, Bắc bảo là ngậy

Bắc quậy Sướng Phê, Nam rên Đã Quá !
Bắc khoái đi phà, Nam thường qua bắc.
Bắc nhắc môi giới, Nam liền giới thiệu
Nam ít khi điệu, Bắc hay làm dáng.

Tán mà không thật, Bắc bảo là điêu
Giỡn hớt hơi nhiều, Nam kêu là xạo.
Bắc nạo bằng gươm, Nam thọt bằng kiếm
Nam mê phiếm, Bắc thích đùa.

Bắc vua Bia Bọt, Nam chúa La-De
Bắc khoe Bùi Bùi lạc rang, Nam : Thơm Thơm đậu phọng
Bắc xơi na vướng họng, Nam ăn mãng cầu mắc cổ
Khi khổ Nam tròm trèm ăn vụng, Bắc len lén ăn vèn

Nam toe toét « hổng chịu đèn », Bắc vặn mình « em chả »
Bắc giấm chua « cái ả », Nam bặm trợn « con kia »
Nam mỉa «tên cà chua», Bắc rủa « đồ phải gió »
Nam nhậu nhẹt thịt chó, Bắc đánh chén cầy tơ

Bắc vờ vịt lá mơ, Nam thẳng thừng lá thúi địt
Khi thấm, Nam xách thùng thì Bắc bê sô
Nam bỏ trong rương, Bắc tuôn vào hòm.
Nam lết vô hòm, Bắc mặc áo quan

Bắc xuýt xoa « Cái Lan xinh cực ! »,
Nam trầm trồ « Con Lan đẹp hết chê ! »
Phủ phê Bắc trùm chăn, no đủ Nam đắp mền
Tình Nam duyên Bắc có thế mới bền mới lâu


Để xem video Tiếng Việt qua hai miền Nam - Bắc, xin mời các bạn truy cập Youtube dưới đây:
https://www.youtube.com/embed/gVcEcVL7qsQ





lundi 1 décembre 2014

BLOG : Khổng Tử (Confucius)


Trương Thanh Long
Sưu tầm - Biên soạn - Bình Luận


Khổng Tử là một nhà tư tưởng, nhà triết học xã hội nổi tiếng người Trung Hoa, các bài giảng và triết lý của ông có ảnh hưởng rộng lớn đối với đời sống và tư tưởng của các nền văn hóa Đông Á.


Giới thiệu

Khổng Tử (còn gọi là Khổng Phu Tử / Vạn thế Sư biểu - Bậc thầy của muôn đời,  27 tháng 8 âm, 551 –11 tháng 4 479 TCN, 72 tuổi) là một nhà tư tưởng, nhà triết học xã hội nổi tiếng người Trung Hoa, các bài giảng và triết lý của ông có ảnh hưởng rộng lớn đối với đời sống và tư tưởng của các nền văn hóa Đông Á. Chính phủ Trung Quốc hiện nay, trong nỗ lực truyền bá văn hóa Trung Hoa ra thế giới, đã cho thành lập hàng trăm Học viện Khổng Tử trên khắp thế giới.

Triết học của ông nhấn mạnh trên sự tu dưỡng đức hạnh cá nhân và cai trị bằng đạo đức: "tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ", sự chính xác của các mối quan hệ xã hội, đạo đức và quy phạm làm người, "Đạo Trung Dung" và các đức tính "Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín". Các giá trị đó đã có được tầm ảnh hưởng lớn trên mọi học thuyết khác ở Trung Quốc như Pháp gia hay Đạo gia trong suốt triều đại nhà Hán. Các tư tưởng của Khổng Tử đã được phát triển thành một hệ thống triết học được gọi là Khổng giáo. Khổng giáo được một người Italia là Matteo Ricci đưa vào Châu Âu, ông cũng là người đầu tiên La tinh hoá tên Khổng Tử thành "Confucius". Khổng giáo còn được xem là một tôn giáo lớn của loài người, nhất là dân tộc Trung Hoa.

Các bài giảng của Khổng Tử được nghiên cứu chủ yếu qua cuốn Luận Ngữ, một tập hợp những "mẩu chuyện cách ngôn ngắn", được biên soạn nhiều năm sau khi ông qua đời do các học trò của ông ghi chép lại. Trong gần 2.000 năm ông được cho là người biên soạn hoặc tác giả của Ngũ Kinh: Kinh Thư, Kinh Thi, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu (Kinh Nhạc đã bị Tần Thủy Hoàng đốt mất nên còn lại Ngũ Kinh).]


Tiểu sử

Khổng Tử tên thật là Khổng Khâu, tự là Trọng Ni, sinh ngày 27 tháng 8 năm 551 trước Công nguyên, vào thời Xuân Thu trong lịch sử Trung Quốc, tại ấp Trâu, làng Xương Bình, nước Lỗ (nay là huyện Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc). Nhiều sử sách ghi rằng ông sinh trong một gia cảnh nghèo, nhưng thực tế gia đình ông có ông tổ ba đời vốn thuộc dòng quý tộc sa sút từ nước Tống dời đến nước Lỗ. Cha của Khổng Khâu, Thúc Lương Ngột (cháu 13 đời của Vi Tử Diễn, anh của vua Trụ nhà Thương) là quan võ thuộc ấp Trâu, đến 70 tuổi mới lấy Nhan thị mà sinh ra ông. Năm lên ba, Khổng Khâu mồ côi cha, lớn lên, phải làm lụng vất vả để nuôi mẹ, nhưng rất ham học.

Năm 19 tuổi, ông lấy vợ và làm một chức quan nhỏ coi kho chuyên quản lý kho tàng, xuất nạp tiền lương công bằng chuẩn xác. Ông cũng từng đảm nhiệm chức quan nhỏ chuyên quản lý nông trường chăn nuôi, súc vật sinh trưởng rất tốt. Nhờ vậy ông được thăng chức lên làm quan Tư không, chuyên quản lý việc xây dựng công trình.

Năm 22 tuổi, ông mở lớp dạy học. Học trò gọi ông là Khổng Phu Tử, hay gọi gọn hơn là Khổng Tử. 'Tử' ngoài ý nghĩa là 'con' ra còn có nghĩa là "Thầy". Do vậy Khổng Tử là Thầy Khổng.

Trong suốt gần 20 năm, từ năm 34 tuổi, Khổng Tử dẫn học trò đi khắp các nước trong vùng để truyền bá các tư tưởng và tìm người dùng các tư tưởng đó. Có nơi ông được trọng dụng nhưng cũng có nơi ông bị coi thường.

Năm 51 tuổi, ông quay lại nước Lỗ và được giao coi thành Trung Đô, năm sau được thăng chức Đại tư khấu (coi việc hình pháp), kiêm quyền tể tướng. Sau ba tháng, nước Lỗ trở nên thịnh trị. Nhưng rồi bị ly gián, gièm pha, ông bèn từ chức và lại ra đi một lần nữa.

Năm 68 tuổi, Khổng Tử trở về nước Lỗ, tiếp tục dạy học và bắt tay vào soạn sách. Có thể nói Khổng Tử là người thầy tư nhân chuyên thu nhận học trò đầu tiên trong lịch sử giáo dục Trung Quốc. Trước thời ông, trường học hoàn toàn là của nhà nước. Khổng Tử sáng lập ra trường học tư, thu nhận nhiều đồ đệ, đưa giáo dục mở rộng cho bình dân, đem tri thức văn hóa truyền bá cho dân gian, có cống hiến thật to lớn đối với giáo dục thời cổ đại.

Ông mất tháng 4 năm 479 TCN, thọ 72 tuổi.


Giáo dục

Trong cuốn Luận Ngữ, Khổng Tử tự coi mình là một "người truyền đạt lại cái đã có mà không phát minh ra thứ gì khác". Ông rất nhấn mạnh trên tầm quan trọng của sự học, và chương mở đầu Luận Ngữ cũng đề cập tới việc học. Vì thế, ông được người Trung Quốc coi là vị Đại Sư. Thay vì tìm cách xây dựng một lý thuyết mang tính hệ thống về cuộc sống và xã hội, ông muốn các môn đồ của mình phải suy nghĩ sâu sắc cho chính mình và lặng lẽ nghiên cứu thế giới bên ngoài, chủ yếu thông qua các cuốn kinh cũ và qua các sự kiện quá khứ có liên quan (như Kinh Xuân Thu) hay những tình cảm của nhân dân trong quá khứ (như Kinh Thi).


Ở thời đại của sự phân chia, hỗn loạn và những cuộc chiến tranh không dứt giữa các nước chư hầu, ông muốn tái lập Thiên Mệnh để có thể thống nhất "thiên hạ" (mọi thứ dưới gầm trời, ở đây nghĩa là Trung Quốc) và mang lại hòa bình, thịnh vượng cho nhân dân. Vì thế Khổng Tử thường được coi là người đã đề xướng chủ nghĩa bảo thủ, nhưng khi xem xét kỹ những đề xuất của ông ta thấy ông đã sử dụng (và có thể cố ý bóp méo) những định chế và lễ nghi trong quá khứ nhằm đặt ra một hệ thống chính trị mới của riêng mình.

Ông mơ ước về sự khôi phục một vương quốc thống nhất mà những vị vua phải được lựa chọn xứng đáng theo đạo đức (như vua Nghiêu, vua Thuấn) chứ không phải theo dòng họ. Những người cai trị phải hành động vì nhân dân, và họ phải đạt tới mức hoàn thiện. Một vị vua như vậy có thể dùng đạo đức của mình giáo hóa nhân dân thay vì áp đặt mọi người bằng pháp luật và quy định. Ngược lại, một vị vua hoang dâm bạo ngược thì không còn tư cách ngồi trên ngai vàng, và người dân có quyền lật đổ vị vua đó.

Nhiều khía cạnh tư tưởng của Khổng Tử vẫn còn lưu truyền và phát huy đến tận ngày nay. Có được sự trường tồn đó, là ở tinh thần đam mê học hỏi và thái độ nghiêm túc đối với việc học của Khổng Tử.
Ông nói: "Ta đi học là học cho ta, để gây cái phẩm giá của ta, chứ không phải là để khoe với người. Ta chỉ lo không làm được những việc đáng cho người ta biết, chứ không lo người ta không biết mình".

Theo Ông, đã không học thì thôi chứ đã học là phải "Học cho rộng, hỏi cho kỹ; nghĩ cho cẩn thận, phân biệt cho sáng tỏ, làm cho hết sức. Có điều không học nhưng đã học điều gì thì phải học cho kỳ được. Có điều không hỏi, nhưng khi đã hỏi điều gì thì phải hỏi cho thật hiểu. Có điều không nghĩ nhưng đã nghĩ điều gì thì phải nghĩ cho ra. Có điều không phân biệt nhưng đã phân biệt điều gì thì phải phân biệt cho minh bạch. Có điều không làm nhưng đã làm điều gì thì phải cố hết sức mà làm cho bằng được… Nếu quả theo được đạo ấy thì tuy ngu mà cũng thành sáng, yếu đuối rồi cũng thành ra khoẻ mạnh".

Khổng Tử cũng nhấn mạnh trên cái mà ông gọi là "Lễ và Nhạc", coi hai thứ đó là những trụ cột của sự cân bằng cho trật tự và sự hài hoà. Lễ là các yêu cầu và quy phạm trong việc đối nhân xử thế; còn Nhạc (âm nhạc, văn nghệ) là để thống nhất mọi con tim cùng chung vui, cũng là để giữ gìn đức hạnh. Ông nói thêm rằng lễ không chỉ là cúng tế, và âm nhạc không chỉ là âm thanh của dùi đánh vào chuông. Cả hai còn là cách truyền đạt giữa lòng nhân của một người và hoàn cảnh xã hội của anh ta; cả hai yếu tố đó đều tăng cường các mối quan hệ xã hội, như Ngũ Thường (năm mối quan hệ chủ yếu):
  1. Quân thần (vua tôi),
  2. Phụ tử (cha con),
  3. Phu thê (vợ chồng),
  4. Huynh đệ (anh em) và
  5. Bằng hữu (bạn bè). 

Các trách nhiệm luôn được cân bằng, và nếu một thần dân phải tuân lệnh vua, thì thần dân cũng phải can ngăn khi nhà vua sai lầm.

Khổng Tử chú trọng vào sự tu dưỡng đạo đức cá nhân trước tiên, sau đó nuôi dưỡng gia đình, rồi mới đến cai trị thiên hạ bằng lòng nhân từ: "Tu thân, Tề gia, Trị quốc, Bình Thiên hạ". Ông nhấn mạnh vào Ngũ thường: "Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín":
- Nhân là lòng từ thiện,
- Nghĩa là làm tròn bổn phận,
- Lễ là sự tôn ti trật tự hay quy tắc trong việc đối nhân xử thế với người trên kẻ dưới,
- Trí là trí tuệ minh mẫn làm việc gì cũng phải suy nghĩ,
- Tín là lòng thành thực hiện điều đã nói.
Người ta phải giữ năm đạo đó làm thường, chẳng nên để rối loạn.

Những bài giảng của Khổng Tử sau này được các môn đồ của ông hệ thống thành một bộ văn bản tỉ mỉ về những quy định và cách thức thực hiện nghi lễ. Nhiều thế kỷ sau khi ông đã qua đời, cả Mạnh TửTuân Tử đều viết những cuốn sách quan trọng, và lúc ấy, một triết lý đã được tạo dựng đầy đủ, gọi là Khổng giáo.

Sau hơn 1.500 năm, học giả Chu Hi đã diễn giải ý tưởng Khổng giáo theo một cách hoàn toàn mới, được gọi là Tân Khổng giáo, để phân biệt với những ý tưởng trong cuốn Luận Ngữ. Tân Khổng giáo đã có ảnh hưởng sâu rộng ở Trung Quốc, Triều Tiên, Việt Nam và nhiều nước châu Á khác cho tới tận thế kỷ 20.

Để đào tạo ra những con người lý tưởng, Khổng Tử đã đề xuất một hệ thống phương pháp giáo dục khá chặt chẽ, với những kiến giải sâu sắc. Có thể nói với hệ thống phương pháp giáo dục này Khổng Tử xứng đáng là một nhà giáo dục lớn. Khổng Tử đã sử dụng nhiều phương pháp dạy học rất độc đáo, có thể khái quát lại gồm :

  1. Phương pháp đối thoại gợi mở, giảng dạy bằng cách trao đổi giữa thầy và trò, giữa người dạy và người học nhằm phát huy tính năng động, sáng tạo và khoa học, khả năng tư duy của người học. Ông nói: "Kẻ nào chẳng phấn phát lên để hiểu thông, thì ta chẳng giúp cho hiểu thông được. Kẻ nào chẳng ráng lên để tỏ ý kiến mình, thì ta chẳng khai phát cho được. Kẻ nào đã biết rõ một góc, nhưng chẳng chịu căn cứ vào đó để biết luôn ba góc kia, thì ta chẳng dạy kẻ ấy nữa."
  2. Phương pháp kết hợp học đi đôi với hành, lời nói kết hợp với việc làm, là thực hành điều đã học và đem tri thức của mình vận dụng vào trong cuộc sống. Ông nói: "Người quân tử trước học văn chương (như Kinh Thi, Kinh Thư) đặng mở rộng trí thức của mình; kế đó, người nương theo lễ giáo mà kiềm giữ lấy nết mình; nhờ vậy mà khỏi trái đạo lý. - Quân tử bác học ư văn; ước chi dĩ lễ; diệc khả dĩ phất bạn hỹ phù".
  3. Phương pháp "ôn cũ biết mới", thường xuyên rèn luyện, tu dưỡng và học tập. Ông thường nhắc rằng: "Người nào ôn lại những điều đã học, do nơi đó mà biết thêm những điều mới, người đó có thể làm thầy thiên hạ đó - Ôn cố nhi tri tân, khả dĩ vi sư hỹ". 
Theo Khổng Tử, muốn tiến bộ người học phải luôn cố gắng nỗ lực, siêng năng trau dồi tri thức cho mình, phải luôn có thái độ cầu tiến, vượt lên. Người học nhất định phải có thái độ khách quan trong học tập, không được vị kỷ tư dục, võ đoán, cố chấp, tự phụ chủ quan - "vô ý, vô tất, vô cố, vô ngã".

Khổng Tử đã đưa ra hệ thống các phương pháp giáo dục, phát huy tính năng động, tích cực và sáng tạo của người học. Những phương pháp đó đến nay vẫn có ý nghĩa thiết thực, đem lại hiệu quả cao trong giáo dục.

Trong quá trình giáo dục, Khổng Tử nhấn mạnh: cả thầy và trò đều phải có nghĩa vụ to lớn với nhau.
- Trò phải tôn kính thầy, dẫu sau này có thành đạt, quyền cao chức trọng đến đâu chăng nữa cũng không được bỏ rơi lễ nghĩa, vẫn luôn phải cung kính thầy.
- Ngược lại, người thầy thì phải có tư cách mẫu mực để làm gương cho trò. Người thầy có can trực, đạo đức, như thế mới có thể đào tạo nên những học trò hữu ích cho đất nước.

Trong Lịch sử Việt Nam có chuyện kể rằng: Phạm Sư Mạnh sau khi đỗ đạt, làm quan to ở triều, về thăm thầy là Chu Văn An. Dọc đường qua khu chợ đang họp, ông ra uy để lính thét dân phải dẹp đường. Biết chuyện, Chu Văn An giận Phạm Sư Mạnh làm quan mà tỏ ra hách dịch với dân, làm trái lời thầy dạy, nên không cho gặp mặt. Dù đã là quan lớn triều đình, Phạm Sư Mạnh vẫn phải quỳ gối cả buổi trước cửa nhà thầy để xin tha lỗi, về sau cũng hành xử khiêm nhường không dám hách dịch nữa.


Lý thuyết đạo đức

Lý thuyết đạo đức của Khổng tử dựa trên ba quan niệm chính: Lễ - Nghĩa - Trí
  • Khi Khổng tử trưởng thành, Lễ được xem là ba khía cạnh sau trong cuộc đời : hiến tế cho thần thánh, thiết chế chính trị và xã hội, và hành vi hàng ngày. Lễ được xem là quy phạm đạo đức và hành vi mà Thiên thượng (Trời) chế định cho con người, lấy đó mà biết việc nào nên làm, việc nào không nên làm.
  • Đối với Khổng tử, Nghĩa là nguồn gốc của Lễ. Nghĩa chính là cách hành xử đúng đắn. Trong khi làm việc vì lễ, vị kỷ cá nhân chưa hẳn đã là xấu và người cư xử theo lễ một cách đúng đắn là người mà cả cuộc đời dựa trên trí. Tức là thay vì theo đuổi quyền lợi của cá nhân mình, người đó cần phải làm những gì là hợp lẽ và đạo đức. 
  • Trí là làm đúng việc vì một lý do đúng đắn. Nghĩa dựa trên quan hệ qua lại. Một ví dụ sống theo Nghĩa là tại sao phải để tang cha mẹ ba năm sau khi chết. Lý do là vì cha mẹ đã phải nuôi dưỡng chăm sóc đưa trẻ toàn bộ trong suốt ba năm đầu đời, và là người có trí phải đền đáp lại bằng cách để tang ba năm.
Cũng như Nghĩa xuất phát từ Lễ, thì Nghĩa cũng xuất phát từ Nhân. Nhân là cách cư xử tốt với mọi người. Nhân là trung tâm của các đức tính :
  • tình cảm chân thật, ngay thẳng;
  • hết lòng vì nghĩa; nghiêm trang, tề chỉnh;
  • rộng lượng, khoan dung và siêng năng cần mẫn. 

Người có đức Nhân chỉ hành động vì nhân nghĩa, đối lập với kẻ bất nhân chỉ hành động vì lợi.

Hệ thống đạo đức của Khổng Tử dựa trên lòng vị tha và hiểu những người khác thay vì là việc cai trị dựa trên luật pháp có được như một quyền lực thần thánh. Để sống mà được cai trị bằng Nhân thì thậm chí còn tốt hơn là sống trong luật pháp của Nghĩa. Để sống có nhân thì ta theo nguyên tắc vàng của Khổng tử: ông đã tranh luận rằng người ta phải luôn đối xử với người khác đúng như những gì họ muốn người khác đối xử với họ. Đức hạnh theo Khổng tử là dựa trên việc sống hài hòa với mọi người.

Khổng Tử nói: "Muốn nhân mà không muốn học thì bị cái che mờ là ngu, muốn trí mà không muốn học thì bị cái che mờ là cao kỳ, muốn tín mà không muốn học thì bị cái che mờ là hại nghĩa, muốn trực mà không muốn học thì bị cái che mờ là ngang ngạnh, muốn dũng mà không muốn học thì bị cái che mờ là loạn, muốn cương mà không muốn học thì bị cái che mờ là táo bạo khinh suất".


Ông áp dụng nguyên tắc trên như sau: "Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân - Cái gì mà ta không muốn thì đừng làm cho người khác"

Dựa theo mức độ tu dưỡng đạo đức, Khổng Tử chia loài người thành ba hạng :

  1. Thánh nhân: Bậc hiền giả, người thể hiện và chuyển giao chân lý minh triết.
  2. Quân tử: Người cao nhã, kẻ phấn đấu để làm điều chân chính.
  3. Tiểu nhân: Kẻ "hèn mọn", hành động không màng tới đạo đức.

Khổng Tử nói: "Người quân tử sợ ba điều: sợ mệnh trời, sợ bậc đại nhân, sợ lời nói của thánh nhân. Kẻ tiểu nhân không biết mệnh trời, nên không sợ, mà còn khinh nhờn bậc đại nhân, giễu cợt lời nói của thánh nhân. Người quân tử ung dung mà không kiêu căng, kẻ tiểu nhân kiêu căng mà không ung dung".


Môn đồ và là người cháu duy nhất của ông, Tử Tư, tiếp tục duy trì trường phái triết học Khổng Tử sau khi ông qua đời. Trong khi vẫn dựa chủ yếu vào hệ thống đức trị của Khổng Tử, hai trong số những môn đồ nổi tiếng nhất của ông nhấn mạnh trên những khía cạnh khác biệt trong giáo lý của ông. Mạnh Tử tin vào tính thiện vốn có của con người, trong khi Tuân Tử đề cao sự thực tế và những khía cạnh vật chất trong tư tưởng Khổng Tử.


Ở thời Nhà Tống, học giả Chu Hi đã thêm các ý tưởng từ Đạo giáoPhật giáo vào Khổng giáo. Trong suốt cuộc đời mình, Chu Hi không được mọi người biết tới, nhưng không lâu sau khi ông mất, những ý tưởng đó trở thành một quan điểm chính thống mới về những ý nghĩa thực sự của tư tưởng Khổng Tử. Các nhà sử học hiện đại coi Chu Hi là người đã tạo ra một thứ gì đó khác biệt và gọi tư tưởng của ông là Tân Khổng giáo. Ở thời hiện đại, vẫn có một số học giả nho giáo (xem Tân Khổng giáo) nhưng trong thời Cách mạng Văn hoá, Khổng giáo thường bị những nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc lên án.


12 câu nói muôn đời giá trị của Khổng Tử

  1. Biết có lỗi mà không sửa thì đó chính là lỗi.
  2. Người không có chữ tín sẽ chẳng làm nên việc gì.
  3. Sự nghiệp chớ nên cầu mong không có chông gai, trắc trở vì không có chúng thì ý chí sẽ không kiên định.
  4. Có kiến thức thì không nghi ngờ, có lòng nhân thì không ưu tư, có dũng cảm thì không sợ hãi.
  5. Đừng mong người khác thuận theo ý mình vì nếu được người khác thuận ý sẽ tất sinh tự kiêu.
  6. Làm việc đừng mong dễ thành công. Vì nếu dễ thành công thì bản thân thường kiêu ngạo.
  7. Không nhìn điều sai trái, không nghe điều xằng bậy, không nói điều sai, không làm điều càn quấy.
  8. Điều mình không thích thì đừng làm cho người khác. Đối với quê hương, gia đình nên tránh gây thù, chuốc oán.
  9. Người không có nhận thức sâu xa sẽ có ngày sẽ gặp phiền muộn, âu lo.
  10. Mọi thứ đều từ hư vô mà ra.
  11. Dùng thì đừng nghi, nghi thì đừng dùng.
  12. Ngồi bàn tiệc đừng ra vẻ anh hùng vì rượu đã làm cho nhiều người gục ngã.


Nếu các bạn coi không rõ hình ảnh « Lời dạy của Khổng Tử », xin mời các bạn truy cập Website dưới đây:


Cảm nghĩ tùy theo các quan điểm khác nhau

Con người ta sinh ra lớn lên già cả rồi bệnh tật mất đi. Cát bụi lại trở về cát bụi. Âu cũng là quy luật thường tình của một kiếp người. Sinh, lão, bệnh, tử vốn là như vậy. Tuổi trung niên đã có những bước thăng trầm trong cuộc sống, có những thành công, có những thất bại trong cuộc sống vật chất, cuộc sống tình cảm.

Ngẫm lại thời gian trôi đi như thoi đưa, không biết bao giờ mới về với ngày xưa, để rồi cùng ôn lại những kỷ niềm thời niên thiếu có buồn, vui, sướng, khổ, có điều ngây thơ, trong trắng chưa vương vấn bụi đường đời.

Đi qua rồi ngẫm lại mới thấy rằng kinh nghiệm cuộc sống đường đời sẽ mãi là những bài học mới cho tất cả chúng ta, dù ở địa vị nào, số phận nào đi chăng nữa. Sang hèn trong kiếp con người ta, không hơn thì cố gắng bằng người, để trong thiên hạ dù là gay đi chăng nữa không để người ta cười người ta khinh.

Các bậc tiền bối dạy đời bằng một quá trình đúc kết kinh nghiệm cuộc sống chắt lọc từ thực tế mà nên triết lý sống. 

Đọc hết lời dạy của đức Khổng tử mới là kẻ trọng đạo lý, hiểu hết mới mong có nhân cách hơn người.





vendredi 28 novembre 2014

SỨC KHOẺ : Bệnh Nám da


Trương Thanh Long
Sưu tầm - Biên soạn - Bình Luận


Theo thống kê, tại Việt Nam tỉ lệ phụ nữ bị nám da chiếm khoảng 60-70% tập trung ở độ tuổi sau 30 – một tỉ lệ mà ít ai ngờ tới lại cao đến như vậy. Nám da không ảnh hưởng tới sức khỏe nhưng lại ảnh hưởng tới mặt thẩm  mỹ, đặc biệt những vết nám lại thường xuất hiện ở khu vực vùng mặt gây giảm, mất tự tin cho chị em, bởi với hầu hết người phụ nữ họ đều hiểu sự hiển hiện của vết nám vừa tố cáo vẻ đẹp đã bắt đầu xuống cấp cũng như tố cáo những dấu hiệu của tuổi già, độ tuổi thanh xuân bắt đầu đi qua.


Nám da là gì?

Màu da trắng hay đậm màu là do sắc tố da melanin quyết định. Tỉ lệ melanin càng cao da càng đậm màu. Vì một lý do nào đó gây sinh ra quá nhiều sắc tố melanin và tập trung không đều sẽ hình thành những mảng da đậm màu hơn các vùng khác.

Nám da là hiện tượng tăng cao sắc tố da, đa phần phụ nữ bị nám sau tuổi 30. Nám da thường có màu nâu, xám hoặc đen. Thường hình thành từng mảng đối xứng trên gương mặt và cũng thường nằm rãi rác từng đốm nhỏ hay từng mảng trên gương mặt.


Nám da là tình trạng trên khuôn mặt xuất hiện những đốm tròn nhỏ, sậm màu, có màu vàng, nâu vàng, nâu sáng nhưng phần lớn là màu nâu đen… ảnh hưởng trực tiếp đến tính thẩm mỹ trên cơ thể con người. Nám thường mọc tập trung thành từng mảng, phân bố chủ yếu ở hai bên gò má, mũi, trán, cằm. Bản chất của nám da là sự phát triển quá mức của các sắc tố melanin ở lớp đáy và trung bì. Tàn nhang thường xuất hiện ở những người có làn da đẹp, trắng, mỏng, mịn. Càng để lâu nám da càng có xu hướng lan rộng, đậm màu lên và khó chữa trị hơn.

Thông thường, có 3 loại nám sau :
  1. Nám sâu : những đốm nâu sẫm màu có chân nám nằm sâu dưới chân bì của da.
  2. Nám mảng : những nốt nám xuất hiện thành từng mảng trên bề mặt da, có màu nâu nhạt.
  3. Nám hỗn hợp : sự kết hợp của 2 loại nám trên, vừa mọc thành mảng, vừa có chân nám ăn sâu dưới bề mặt da.

Nguyên nhân


Có rất nhiều nguyên nhân gây nám da có thể kể tới, nhưng có thể chia ra thành hai nguyên nhân chính sau.

Từ bên trong cơ thể
  • Do di truyền.
  • Do sự thay đổi nội tiết: mang thai, mãn kinh, rối loạn kinh nguyệt,…
  • Mắc các bệnh phụ khoa mãn tính như viêm tử cung, viêm phần phụ, các bệnh về gan, giun sán, sốt rét. Di chứng sau điều trị các bệnh ngoài da vùng mặt để lại.
  • Do tâm trạng, tâm lý tinh thần, trạng thái tinh thần căng thẳng kéo dài.

Từ yếu tố bên ngoài
  • Do chế độ ăn uống, nghỉ ngơi, sinh hoạt không hợp lý.
  • Do sử dụng thuốc, mỹ phẩm không đúng cách.
  • Do sử dụng thuốc tránh thai thời gian dài.
  • Do tác động của môi trường bên ngoài như ánh nắng mặt trời, khói bụi, ô nhiễm,…

Nám da hình thành có thể bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân khác nhau: như do tiếp xúc nhiều với ánh nắng mặt trời: Các tia UV trong ánh nắng khi chiếu vào da làm cho da bị sậm màu, nếu tiếp xúc thường xuyên sắc tố melanin tăng lên để bảo vệ da, đồng thời do sự tăng sinh melanin mà các vết nám từ đó cũng xuất hiện. Do đó cần hạn chế việc để da tiếp xúc trực tiếp với ánh nắng mặt trời đặc biệt trong những thời điểm ánh nắng chứa nhiều UV có hại như từ 10h sáng đến 3h chiều. Khi đi ra nắng cần có biện pháp che chắn và sử dụng kem chống nắng phù hợp.


Bên cạnh do ánh nắng, việc hiện nay trên thị trường có vô vàn các sản phẩm mỹ phẩm làm đẹp, việc lạm dụng các dòng mỹ phẩm chứa chất tẩy da mạnh, tẩy trắng nhanh, các mỹ phẩm chứa thành phần corticoid, khởi đầu người dùng sẽ cảm giác da mịn màng và trắng lên rất nhanh, nhưng chỉ một thời gian sau đó có thể lĩnh những hậu quả không ngờ tới mà phổ biến nhất là sạm da, nám da, thậm chí teo da, da không đều màu, các vùng nám đen đậm. Do đó trước khi dùng một loại mỹ phẩm nào, cần tìm hiểu rõ thông tin về sản phẩm, độ an toàn, uy tín của nhà sản xuất, thậm chí cần thiết nên đi khám để nhận được lời khuyên hữu ích từ các bác sỹ da liễu.


Nám da do nội tiết, tuổi tác – nguyên nhân chính

Trong các nguyên nhân gây nám da, nguyên nhân phổ biến nhất là nám da do nội tiết, tuổi tác, điều này lý giải vì sao nám da thường gặp ở phụ nữ sau 30 tuổi, phụ nữ mang thai, sau sinh.


Đi cùng với thời gian, tất cả các bộ máy trong cơ thể đều lão hóa dần, buồng trứng cũng lão hóa và giảm tiết nội tiết tố estrogen – mà đối với phụ nữ nội tiết tố estrogen chính là khơi nguồn duy trì nét đẹp nữ tính, làn da mịn màng, căng hồng. Do thiếu hụt nội tiết tố kèm theo tuổi tác từ đó da cũng vậy bắt đầu giảm độ đàn hồi, xuất hiện các vết nhăn, vết chân chim, chảy xệ dần, các vết sạm, nám da bắt đầu xuất hiện. Vấn đề tuổi tác con người không thể quay ngược được thời gian, nhưng nếu có biện pháp chăm sóc da đúng cách, duy trì dinh dưỡng, bổ sung các thành phần chống lão hóa, bổ sung nội tiết tố thì làn da vẫn có thể duy trì được vẻ đẹp mịn màng, thanh xuân so với những người cùng độ tuổi khác.


Một góc cạnh dễ quan sát nhất của quá trình nám da do nội tiết là ở phụ nữ bị rối loạn kinh nguyệt, phụ nữ mang thai hay sau sinh: có tới hơn 60% phụ nữ bị nám da sau quá trình sinh con lý do trong giai đoạn này có sự biến đổi liên tục việc tăng giảm nội tiết estrogen.  Do đó để cải thiện nám da do nội tiết tố, tuổi tác, chị em cần bổ sung dinh dưỡng đầy đủ, uống nhiều nước, ăn nhiều rau quả xanh, các loại thực phẩm giàu vitamin C, A, E hỗ trợ chống lão hóa đặc biệt cần bổ sung các loại thực phẩm giàu nội tiết tố nữ estrogen như các loại lúa mạch, vừng, đậu đỗ đặc biệt các thực phẩm từ đậu nành như sữa đậu nành, đậu phụ, mầm đậu nành.


Các cách điều trị nám da phù hợp với từng tình trạng nám

Đối với trường hợp bị nám nhẹ

Nám da ở thể nhẹ là khi làn da có những vết sạm nhỏ, nhạt màu, mọc rải rác. Trong trường hợp này, bạn có thể áp dụng các cách trị nám như sau :

  • Bôi kem dưỡng da, bảo vệ da theo đúng chỉ định của các bác sĩ
  • Sử dụng một số loại mặt nạ dưỡng ẩm từ thiên nhiên (mặt nạ dưa chuột, lô hội, sữa chua)
  • Tránh tiếp xúc với ánh sáng mặt trời và môi trường ô nhiễm
  • Bổ sung nhiều rau xanh, hoa quả để cung cấp các loại vitamin A, B, E giúp da tái tạo và hồi phục hư tổn
Tuy nhiên, các giải pháp này chỉ có tác dụng mang tính hỗ trợ việc chữa nám da chứ không thể loại bỏ triệt để, tận gốc các vết nám.


Đối với trường hợp bị nám nặng

Lúc này, làn da bị sạm đen, quầng nám xuất hiện rõ rệt, chân nám ăn sâu vào lớp biểu bì da. Bạn không nên vội vàng sử dụng các loại kem hay mỹ phẩm trị nám da. Bởi, có rất nhiều sản phẩm không rõ nguồn gốc xuất xứ, chứa nhiều chất kích thích da, khiến da bạn bị tổn thương nghiêm trọng và có khả năng bị nám suốt đời. Bạn nên gặp trực tiếp các bác sĩ da liễu để được tư vấn và hỗ trợ. Theo các chuyên gia, để trị dứt điểm nám, bạn nên áp dụng các giải pháp công nghệ cao, tác động trực tiếp vào vùng điều trị, tiêu diệt và phá hủy hoàn toàn chân nám.


Làm mờ nám da do nội tiết nhờ tinh chất mầm đậu nành

Từ bao đời nay,  đậu nành đã được coi là một loại thực phẩm dinh dưỡng tuyệt vời cho sức khỏe và sắc đẹp phụ nữ, được coi là món quà từ thiên nhiên mà tạo hóa ban tặng cho chị em để gìn giữ duy trì tuổi thanh xuân, ngăn ngừa các dấu hiệu lão hóa như da khô, nám da, tàn nhang… thậm chí cải thiện các vấn đề tế nhị liên quan tới nội tiết tố nữ như suy giảm khả năng sinh lý, duy trì hạnh phúc viên mãn vợ chồng.


Đậu nành có tác dụng hữu ích đối phụ nữ như vậy là do bản thân đậu nành chứa 1 hoạt chất có tên isoflavon, isoflavon này có tác dụng giống như nội tiết tố nữ estrogen được mệnh danh là estrogen nguồn gốc thảo dược. Nhờ bổ sung isoflavon mà các vết sắc tố bắt nguồn từ sự thiếu hụt nội tiết tố estrogen như nám da ở phụ nữ sau 30 tuổi giảm đi đáng kể, thậm chí có thể mất tùy thuộc vào mức độ đậm nhạt, độ lan rộng ăn sâu của vết nám. Không chỉ làm mờ vết nám, isoflavon trong đậu nành còn có tác dụng làm đẹp da nói chung giúp da dẻ căng mịn, tăng độ đàn hồi, giảm các nếp nhăn, giúp tóc bóng khỏe.

Để tiện cho việc sử dụng và tăng cường hiệu quả, hoạt chất thần kỳ isoflavon ngày nay đã được công nghệ dược phẩm tiên tiến chiết xuất thành công chứa trong tinh chất mầm đậu nành.  Mức độ tác dụng, hiệu quả của tinh chất mầm đậu nành phụ thuộc vào quy trình chiết xuất, dây chuyền sản xuất và quan trọng nhất là hàm lượng isoflavon chứa trong tinh chất mầm đậu nành.

Khoa học đã và đang khám phá thêm những tác dụng thần kỳ của loại hợp chất này. Tuy nhiên với những bằng chứng khoa học hiện tại các cơ quan y tế và các bác sỹ khuyến khích phụ nữ hãy chọn cho mình một chế phẩm từ tinh chất mầm đậu nành uy tín chất lượng được sản xuất theo quy trình công nghệ đảm bảo, nhãn mác đầy đủ xuất xứ, thời hạn sử dụng và được đông đảo người dùng tin tưởng.


Tóm tắc cách phòng chống & cách điều trị

Cách phòng chống
  • Tránh tiếp xúc trực tiếp với ánh nắng mặt trời đặc biệt vào giờ cao điểm: từ 10h đến 15h chiều.
  • Tránh để tinh thần căng thẳng lâu ngày, nên ngủ mỗi ngày từ 7 – 8h, dành thời gian thư giãn, tập thể dục thường xuyên.
  • Xây dựng chế độ ăn uống hợp lí, bổ sung nhiều vitamin từ hoa quả và rau xanh để tăng sức đề kháng cho làn da từ bên trong.
  • Hạn chế sử dụng các loại mỹ phẩm làm trắng da, chống nám da, chỉ có tác động tức thời. Bởi những loại này có chứa nhiều chất tẩy mạnh, lúc mới dùng sẽ tẩy trắng da, làm đẹp da, nhưng dùng thời gian lâu, càng ngày lớp da bị bào mòn, sẽ xuất hiện lớp da non. Khi đó, bạn đi nắng nhiều rất dễ bị nám. Ngoài ra, trong kem có lượng nhỏ thủy ngân, nếu dùng lâu dài sẽ gây ra teo da, dẫn đến hiện tượng nám da vĩnh viễn.
  • Tăng cường sức khỏe, sức đề kháng cho da từ bên ngoài bằng việc chăm sóc da với các sản phẩm nguồn gốc thiên nhiên có tác dụng phục hồi và bảo vệ làn da.

Cách điều trị

Khi bị nám việc đầu tiên là đi khám bác sỹ chuyên môn để xác định đúng nguyên nhân gây nám thì mới có thể điều trị hết nám. Tuy cơ thể chúng ta có khả năng tự điều chỉnh, tự giải độc chữa trị cho các rối loạn ở da nhưng cần tuân thủ những chỉ định điều trị cùng một chế độ sinh hoạt, bổ sung dinh dưỡng hợp lí khoa học để phục hồi sức khỏe da từ bên trong và tăng sức đề kháng bảo vệ làn da từ bên ngoài.
  • Điều chỉnh chế độ ăn uống: Bổ sung các loại thực phẩm tốt cho da và cho cơ thể, ăn nhiều rau và hoa quả. Cung cấp cho cơ thể các chất như vitamin C, Beta carotene, vitamine E,… Uống nhiều nước, ngủ đủ giấc,… Cần chánh các thức ăn cay nóng làm xung huyết da, các loại rượu, bia, …
  • Lột da mặt: Có thể sử dụng một vài phương pháp lột da mặt. Tuy nhiên biện pháp này không được khuyên dùng bởi biện pháp lột da trị nám là phá hủy tế bào biểu bì tạo hắc tố bề mặt ẩn dưới lớp biểu bì. Nhưng một số tế bào biểu bì tạo hắc tố có thể nằm sâu hơn mức axit có thể thâm nhập. Kết quả là các tế bào này sẽ bám vào các tế bào khác để truyền sắc tố. Các nốt nám lại xuất hiện trở lại. Ngoài ra, phương pháp lột da đòi hỏi một chế độ phòng ngừa nghiêm ngặt trong vòng vài tháng. Nếu bạn không kiêng cữ được da bạn có thể rơi vào tình trạng nám vĩnh viễn.
  • Sử dụng các sản phẩm thiên nhiên làm giảm nám, tăng sức khỏe cho làn da.



dimanche 23 novembre 2014

SỨC KHOẺ : Thoái hoá khớp gối (Arthrose du genou)


Trương Thanh Long
Sưu tầm - Biên soạn - Bình Luận


Khớp gối là khớp rất quan trọng, gánh toàn bộ cơ thể và là khớp vận động nhiều nhất chính vì thế nó rất dễ bị thoái hóa. Khi bị thoái hóa khớp gối người bệnh sẽ bị giảm chức năng sinh hoạt hằng ngày, gây khó khăn trong vận động, đi lại, ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống. Vì thế cần phát hiện sớm bệnh để ngăn ngừa quá trình thoái hóa thêm, hạn chế tàn phế xảy ra.


Bảo vệ sụn khớp - vai trò quan trọng với thoái hóa khớp

Một nghiên cứu công bố năm 1990 cho: Khoảng 52% người trên 35 tuổi và 80% người trên 70 tuổi có ít nhất một tổn thương thoái hóa khớp. Các nhà nghiên cứu bắt đầu tìm hiểu và khám phá ra những nguyên do làm hư hại sụn khớp - tổn thương chính của bệnh thoái hóa khớp.

Sụn khớp là phần bao bọc 2 đầu xương, nơi 2 đầu xương tì lên nhau khi khớp cử động. Sụn khớp bình thường có bề mặt trơn, nhẵn bóng, rất cứng và chịu đàn hồi tốt, chịu ma sát do vậy, giúp 2 đầu xương trượt lên nhau một cách dễ dàng. Đồng thời tăng khả năng chịu lực, giúp khớp thích nghi được với những cử động mạnh (chạy nhảy), áp lực lớn (bê vác nặng…).


Sụn (cartilage) là lớp tế bào nom trong như thạch, rất bền và dai, không có mạch máu và dây thần kinh. Công dụng giảm ma sát khi khớp cử động. Quan trọng như vậy mà sụn lại gồm những tế bào rất mỏng manh, khó nuôi cấy, dễ thoái hóa và khó tái tạo sau khi bị chấn thương. Cho nên sụn sẽ bị suy yếu khi khớp bất động, không được dùng tới.

Sụn chứa 75% nước khi khớp cử động,nước đó ra vào thấm qua màng hoạt dịch xương khớp. Khớp nằm trong một cái túi mà tế bào mặt trong túi tiết ra một hoạt dịch lỏng nhờn như dầu để làm khớp trơn tru trườn lên nhau khi co duỗi, cử động. Hoạt dịch cũng là nguồn cung cấp chất bổ dưỡng cho sụn vì sụn không có mạch máu.

Sụn khớp dễ thoái hóa
Cùng đảm nhiệm chức năng chung của hệ thống xương khớp, nâng đỡ và vận động, sụn khớp là nơi chịu tác động trực tiếp của nhiều áp lực: lực nén, lực ma sát. Vì vậy sụn rất dễ bị bào mòn cơ học, bên cạnh đó, các gốc tự do và các enzym (collagenase, phospholipase A2…) sinh ra trong quá trình vận động cũng là các tác nhân gây hủy hoại sụn khớp.

Khi trẻ, hệ thống xương và sụn khớp được cơ thể điều tiết mức độ cân bằng, nhưng khi có tuổi sự cân bằng mất dần quá trình tổng hợp bị suy giảm dẫn tới sự lão hóa và suy giảm chức năng trong khi tế bào sụn khớp (tế bào đảm nhiệm chức năng tổng hợp) lại không có khả năng tăng sinh; đặc biệt là sự thiếu hụt các nguyên liệu cần thiết cho quá trình tổng hợp (thường được bổ sung từ nguồn thực phẩm).

Do vậy, phần sụn khớp dần mất đi không được bù đắp lại dẫn tới biến đổi về cấu trúc: mỏng, dẹt, xơ hóa, mềm, yếu, thậm chí có thể mất đi để lộ phần xương dưới sụn. Từ đó dẫn tới suy giảm chức năng: giảm khả năng chịu lực, chịu ma sát, khiến khớp cử động đau.

Giải pháp phòng tránh cần bổ sung dưỡng chất cải thiện cấu trúc khớp bị thoái hóa
Glucosamine: Đây là chất người ta tìm thấy trong thành phần của sụn khớp do cơ thể tự sản sinh. Thoái hóa khớp là sự bào mòn các thành phần sụn khớp, gây tình trạng chết tế bào sụn.

Trước đây glucosamine được xếp vào nhóm thuốc bảo vệ sụn (gồm có glucosamine sulfate, Chondroitin sulfate và Diacerin) hay thuốc tác dụng chậm với các bệnh viêm khớp. Hiện nay nó được cơ quan Dược phẩm châu Âu (EMEA) chấp nhận xét vào danh mục thuốc giúp cải thiện cấu trúc trong bệnh viêm khớp.

Methylsulfonylmethan (MSM): Đây là một hoạt chất có chứa nhóm lưu huỳnh có tác dụng chống viêm được bổ sung nhiều trong bệnh khớp đặc biệt viêm khớp.

Trong các thí nghiệm sử dụng phóng xạ đánh dấu lưu huỳnh, đã chỉ ra rằng sau khi uống, MSM cung cấp lưu huỳnh cho các axit amin thiết yếu như methionine, cysteine, và các protein huyết thanh khác, cuối cùng cũng tìm thấy nó có trong collagen của da, khớp xương, máu và mạch máu.

MSM cũng được tích hợp vào keratin của tóc và móng. Các nghiên cứu trên động vật đã chỉ ra rằng các khớp bị ảnh hưởng bởi viêm xương khớp có nồng độ lưu huỳnh thấp hơn, và những con chuột bị viêm khớp được bổ sung MSM sụn khớp ít bị phá hủy hơn.

Trong một thử nghiệm ở những người bị viêm xương khớp, kinh nghiệm cho thấy người tham gia nghiên cứu được bổ sung MSM có sự giảm đau rõ rệt đáng kể hơn so với người không dùng. MSM cũng được biết đến là rất an toàn và không độc hại.

Chondroitin: là chất được tự nhiên được sản sinh trong cơ thể. Các nhà nghiên cứu Nhật Bản đã tìm ra chondrointin có vai trò trong việc quyết định tính đàn hồi và co giãn của các màng và chất lỏng.

Một nghiên cứu gần đây của các nhà khoa hoc Belgium cho biết chondroitin có tác dụng ảnh hưởng lớn tới tế bào cartilage. Glucosamin và chondroitin là hai thành phần chính tham gia quá trình xây dựng cấu trúc khớp, chúng có chức năng ức chế và kìm hãm hoạt động của các tác nhân gây ra quá trình hủy hoại khớp.

Việc bổ sung hai dưỡng chất này là đặc biệt quan trọng cho bộ khung xương của chúng ta, nếu có điều kiện ta nên sử dụng từ trẻ bởi vì xây dựng, phục hồi và tái tạo sụn khớp là một quá trình, được thực hiện trong thời gian dài.


Triệu chứng của bệnh thoái hoá khớp gối



  • Người bị bệnh thoái hoá khớp gối thường có cảm giác đau vùng khớp gối, lúc đầu đau nhẹ nhàng, đau chủ yếu về đêm.
  • Đôi khi cảm giác cứng khớp gối, nhất là sáng sớm lúc vừa ngủ dậy, sau một lúc đi lại nghỉ ngơi thấy đỡ đau hơn, thấy dễ chịu hơn.
  • Đau quanh khớp gối, đôi khi chỉ một vài điểm, đau tăng hơn khi đi lên cầu thang hoặc khi ngồi xổm xuống.
  • Có khi khớp gối bị sưng lên, chứa nhiều dịch bên trong mà nhiều người gọi là tràn dịch khớp. Nếu chọc hút thì đau sẽ giảm xuống nhưng mấy ngày sau khớp sưng trở lại.
  • Những trường hợp nặng khớp gối bị biến dạng vẹo vào trong, mà nhiều người gọi là chân vòng kiềng.
  • Người bệnh đi đứng rất đau, phải dùng khung hoặc nạng hổ trợ. Gập duỗi gối bị hạn chế.


Chữa thoái hóa khớp gối bằng vật lý trị liệu

Điều trị vật lý trị liệu không chỉ giảm đau, giảm phù nề, tăng lực cơ, tăng tầm vận động khớp gối mà còn phục hồi các chức năng sinh hoạt hằng ngày của người bệnh.

  • Giảm đau, tăng tuần hoàn: chiếu đèn hồng ngoại, chườm nóng, chiếu thấu nhiệt vi sóng, điều trị bằng các dòng điện giảm đau (dòng Ten, dòng giao thoa…), sóng siêu âm giảm đau, kháng viêm, làm mềm tổ chức tổn thương xơ sẹo trong sâu, hướng dẫn sử dụng băng thun hoặc bó gối để cố định khớp gối khi đi lại, lên xuống cầu thang.
  • Huấn luyện cơ, tập mạnh các nhóm cơ gập duỗi khớp gối, các nhóm cơ gập duỗi dang áp khớp hông để hỗ trợ khớp gối tùy vào lực cơ người bệnh, gia tăng tầm vận động khớp gối, độ di động xương bánh chè: kỹ thuật P.N.F, tập đề kháng bằng tay, bằng tạ, dây thun co giãn, tập di động xương bánh chè, tập chịu sức, lên xuống cầu thang.
  • Với người bị thoái hóa khớp gối thì việc giảm cân, thay đổi lối sống như tránh ngồi xổm, tránh ngồi xếp bằng, hạn chế leo cầu thang hay leo dốc, hạn chế khiêng vác nặng là chuyện cần làm suốt đời. Có thể mang nẹp gối trong giai đoạn đang bị đau, nhưng sau đó cần phải tập cơ tứ đầu để có một khớp gối vững khi đi đứng, vì khi bị đau gối bao giờ cơ tứ đầu đùi cũng bị teo nhỏ.


Điều trị thoái hoá khớp gối bằng « thuốc » hay « chất nhờn » 

Thoái hóa khớp gối là một vị trí thường gặp nhất của bệnh thoái hóa khớp. Trong những đợt cấp của bệnh, có thể dùng các thuốc chống viêm không steroid, thuốc giảm đau đơn thuần, nhưng các thuốc này có nhiều tác dụng phụ trên đường tiêu hóa như loét dạ dày, xuất huyết tiêu hóa.

Một số thuốc chống viêm không steroid như indometacin về lâu dài lại có tác dụng có hại lên sụn khớp, làm trầm trọng thêm quá trình thoái hoá khớp (THK). Biện pháp cuối cùng là phải phẫu thuật thay khớp giả, rất tốn kém. Để khắc phục những nhược điểm này, hiện nay, biện pháp sử dụng chất nhờn (như acid hyaluronic hay dẫn xuất của nó) đã được ứng dụng rộng rãi vì tính an toàn và hiệu quả kéo dài.


Acid hyaluronic (AH) và thoái hóa khớp (THK)
Bình thường khớp gối chứa khoảng 2ml dịch khớp. Acid hyaluronic (AH) là một polysacharid có trong thành phần dịch khớp, với hàm lượng từ 2,5 - 4,0mg/ml. Nó bôi trơn mô mềm và phủ trên bề mặt sụn khớp và được tổng hợp bởi tế bào sụn. AH có nhiệm vụ đệm giảm xóc, bôi trơn và bảo vệ khớp. Nó có các tính chất nhớt và đàn hồi tùy thuộc vào lực tác động.

Nếu lực tác động lên mạnh, nó có tính chất đàn hồi, còn nếu lực tác động nhẹ thì nó như là dầu bôi trơn. Khi khớp bị thoái hóa, số lượng acid hyaluronic và chất lượng chất này trong dịch khớp bị giảm. Ở bệnh nhân THK gối, lượng acid  hyaluronic chỉ còn một nửa đến hai phần ba so với bình thường, do đó có hiện tượng dịch khớp giảm độ nhớt, mất khả năng bảo vệ sụn khớp, dẫn đến tiến triển huỷ hoại khớp.


Tác dụng điều trị của Acid hyaluronic (AH) trong thoái hóa khớp (THK)
Sự bổ sung AH trong thoái hoá khớp dẫn đến tăng kéo dài nồng độ và trọng lượng phân tử của AH nội sinh, làm cải thiện đáng kể chức năng khớp, giảm đau và tác dụng này có thể kéo dài hàng tháng. Thuốc có tác dụng giảm đau do khi tiêm vào trong khớp, nó làm giảm sản sinh các hóa chất gây viêm trong dịch khớp (PE G2, bradykinin), ức chế cảm thụ đau ở bệnh nhân THK.
AH có tác dụng kháng viêm do ngăn chặn tác dụng của cytokyne và ngăn chặn sinh tổng hợp PGE2. Tuy chỉ lưu trong dịch khớp 7 ngày nhưng duy trì tác dụng trong 6 tháng do kích thích sản xuất AH nội sinh. Các thử nghiệm trên lâm sàng đã chứng tỏ, ở người THK, việc bổ sung acid hyaluronic nội khớp có tác dụng giảm đau tốt hơn giả dược.
Thuốc đạt hiệu quả tương tự khi tiêm corticoid nội khớp song tác dụng bền vững hơn. Trong thí nghiệm trên động vật, tiêm AH còn có tác dụng bảo vệ và sửa chữa lại các tế bào sụn. AH ức chế thoái hoá sụn khớp do gia tăng hoạt tính của men TIMP (tisue inhibitor metalloprotease), kết khối các proteoglycan và tăng sinh tổng hợp của tế bào sụn khớp. Thuốc có hiệu quả tác dụng rõ rệt đối với bệnh nhân THK trên nhiều mặt, đặc biệt là cải thiện chức năng khớp.


Những trường hợp thoái hóa khớp (THK) nào được sử dụng Acid hyaluronic (AH)?
Liệu pháp tiêm sodium hyaluronate vào khớp gối có tác dụng trong điều trị THK gối từ mức độ từ trung bình đến nặng vừa. Nó có ích lợi đặc biệt đối với những bệnh nhân không đáp ứng với điều trị thông thường, không dung nạp được thuốc đặc biệt là thuốc chống viêm không steroid, cũng như  giúp trì hoãn thời gian thực hiện phẫu thuật thay khớp vốn khó khăn và tốn kém.
Có nhiều loại thuốc chứa AH. Thường là hộp 5 ống chứa 2- 2,5ml AH, AH tiêm nội khớp gối 1 ống/tuần trong 5 tuần liên tục. Khi tiêm nội khớp AH cần đảm bảo vô khuẩn khi tiến hành thủ thuật. Khi đã bóc hộp bơm tiêm ra rồi phải tiêm ngay. Nếu khớp có dịch phải hút ra rồi mới tiêm. Thuốc chỉ có hiệu quả khi tiêm hết 3 lần (synvic) hoặc 5 tuần (hyalgan). Thuốc có độ dung nạp khá tốt.
Trong một số ít trường hợp chỉ gặp đau nơi tiêm, phản ứng viêm tại chỗ, đau cơ, đau khớp, cảm giác mệt mỏi. Các triệu chứng này chỉ thoáng qua, sau 2-3 ngày là biến mất và thường chỉ gặp trong lần tiêm đầu tiên.

Mục đích chính của điều trị khớp gối là giảm đau. Cho tới nay, chưa có một phương pháp điều trị nào cho phép tái sinh lại sụn khớp đã hỏng: Những thuốc hiện đang có đều chưa có những bằng chứng chứng tỏ  tính hiệu quả của nó. Ghép sụn khớp vẫn còn trong giai đoạn thực nghiệm.

Khởi đầu bao giờ cũng điều trị bằng thuốc. Thất bại trong điều trị này cùng với dấu hiệu đau vẫn tiếp tục dai dẳng và tăng nặng lên, xuất hiện thêm  những thay đổi về hình thái của chi dưới lúc đó  mới cần có can thiệp ngoại khoa.


Điều trị ngoại khoa

Có hai khả năng của điều trị ngoại khoa:
  • Đục xương sửa trục của chi dưới để lấy lại cân bằng và phân phối lại khả năng chịu lực cho khớp gối.
  • Thay khớp gối với mục đích thay sụn khớp đã bị hỏng.

Đục xương sửa trục (Ostéotomies du genou)

Vì sao phải đục sửa trục xương ?
Mục đích của đục xương sửa trục là để điều trị thoái hoá khớp gối một bên. Trường hợp này sụn khớp bị mòn chỉ xảy ra ở một bên, (ở bên trong thường gặp hơn bên ngoài). Đục chỉnh trục là lấy bỏ hay thêm vào một mảnh xương hình chêm để chỉnh lại trục của chi dưới cho thẳng, nhằm lấy lại cân bằng lực, chuyển trọng tâm lực tỳ lên gối sang bên mặt khớp lành, giảm mức độ chịu tải cho mặt khớp đã thoái hoá nên làm chậm lại quá trình thoái khớp. Đục xương chỉnh trục không làm thay đổi được quá trình thoái hoá, nó vẫn tồn tại thoái hoá ở trên khớp, nhưng nó có hai tác dụng :
  • Làm giảm đau
  • Làm chậm lại thoái hoá cho khớp đã hỏng (khe khớp đã bị hẹp), điều này rất quan trọng ở người trẻ tuổi.
Nếu không được điều trị, thoái hoá gối một bên có nguy cơ nặng thêm, và tiến triển tới mức không thể cứu vãn được.

Lấy thoái hoá bên trong khớp làm ví dụ: do thoái hoá nên sụn khớp ở bên trong bị mỏng đi. Cẳng chân vẹo trong (varus) nên chuyển dần trọng tâm của gối vào bên trong (bên tổn thương). Vùng bệnh càng ngày càng phải chịu đựng nhiều sức ép của cơ thể, trong khi đó phần bên ngoài rất khỏe mạnh lại làm việc ít hơn. Thực sự muốn cắt vòng xoắn này chỉ còn cách là đục xương chỉnh lại trục của chi.

Kỹ thuật đục xương sửa trục


Đục chỉnh trục kiểu khép: là đục vào chỗ gồ của xương, sau đó lấy bỏ đi mảnh xương hình chêm, rồi nâng phần xương còn lại lên, dựng lại trục chi cho thẳng, sau đó cố định lại bằng các phương tiện kết hợp xương.


Đục xương kiểu mở thì ngược lại, người ta cưa xương làm đôi, sau đó lấy một miếng xương ghép, thường lấy ở xương chậu, có hình chêm rồi chèn vào giữa đường cắt xương để nâng phần mâm chày lên, chỉnh lại trục chi cho thẳng.

Đục xương chỉnh trục bắt buộc phải làm thật chuẩn,  kết hợp xương ở tại vị trí đục xương  bằng các phương tiện kết xương chắc chắn như : vis, plaque vis, agraffe,...


Có hai kiểu đục xương (có thể làm ở xương đùi, có thể làm ở xương chày) tuỳ vào biến dạng trục mà chỉnh. :
  • Đục xương vẹo ra ngoài (valgisation) để chỉnh  gối vẹo trong (genu varum)
  • Đục xương vẹo vào trong (varisation) để chỉnh gối vẹo ngoài (genu valgum).
Hậu phẫu và kết quả
Sau mổ không cần phải bất động (sử dụng đinh nẹp một khối - rất vững chắc). Luyện tập có thể tiến hành sớm. Mổ thường rất đơn giản : chỉ cần đo chính xác phần xương định cắt, sau đó tiến hành mọi thủ thuật đều ở bên ngoài khớp.

Cần phải chờ cho liền xương, thì chân mới vững nên phải sử dụng nạng. Thời gian tập đi lại và tỳ đè tuỳ thuộc vào đục chỉnh trục ở xương nào (đùi hay chày)  kỹ thuật (mở hay khép), cố định xương kiểu gì, có thể cho phép tỳ ngay, hay cũng có thể phải chậm lại 2 đến 3 tháng.

Can thiệp này cho phép giảm đau ngay và ngừng quá trình làm nặng thêm của thoái hoá khớp . Nó không làm cho sụn bớt hỏng , không làm giảm được thoái hoá. Sụn khớp vẫn có nguy cơ bị phá huỷ và vẫn còn có khả năng làm cho khớp thoái hoá tiếp sau này. Nhưng thời gian để thoái hoá toàn bộ sẽ kéo dài hơn, như thế thay khớp sẽ chờ được đến thời điểm tốt nhất.

Chỉ định đục xương sửa trục
Chỉ định đục xương chỉnh trục cần có sự tham gia của nhiều yếu tố :
  • Mức độ đau trầm trọng và biến dạng của chi dưới
  • Tuổi: đục xương chỉnh trục hay làm với người trẻ tuổi
  • Trên phim chụp điện có những yếu tố đảm bảo cho thành công của phẫu thuật

Thay khớp gối (Prothèse du genou)

Sau một thời gian dài với sự phát triển  đáng kinh ngạc, ngày nay thay khớp gối cho những người cao tuổi đã đạt được kết quả rất tốt, ngang với việc thay khớp háng. Khớp gối nhân tạo không phải là bản lề trong khớp. Nó chỉ thay thế các  phần bị hỏng của sụn khớp  và nó bảo tồn hoàn toàn các cấu trúc giải phẫu khác của gối, đặc biệt là các dây chằng, cũng chính vì thế không chỉ có một loại khớp gối duy nhất mà còn có rất nhiều loại khớp khác nhau phù hợp với từng thương tổn của gối. 


Các hiểu biết về khớp gối nhân tạo 
Khớp gối nhân tạo bao gồm các thành phần khác nhau, chúng liên hệ với nhau trong khớp gối. 

Khớp gối nhân tạo đơn (prothèses unicompartimentales) nó thay thế cho khớp đùi chày trong hoặc ngoài, chỉ thay thế phần sụn đã hỏng, không can thiệp tới dây chằng, không can thiệp vào khoang khớp còn tốt. Nó chỉ định cho những thương tổn thoái hoá, hay hoại tử giới hạn trong một khoang khớp. Sử dụng trên 20 năm nay, kết quả cho thấy rất ít trường hợp phải thay lại.

Khớp gối nhân tạo toàn bộ trượt (prothèses totales à glissement), điểm đặc biệt của nó là có một đĩa mâm chày di động nên tôn trọng sinh lý của khớp gối và hệ thống  dây chằng gối, vì thay thế hoàn toàn phần sụn khớp, nên chỉ định cho trường hợp thoái hoá toàn bộ trên diện rộng, cũng như trong các trường hợp viêm khớp dạng thấp.

Còn có loại khớp nhân tạo có bản lề (prothèses charnières), nó thay thế hoàn toàn cho khớp gối. Nhưng rất hiếm sử dụng, nó chỉ dùng trong trường hợp cấu trúc khớp bị phá huỷ nặng nề, phá huỷ toàn bộ hệ thống dây chằng, cũng như dùng để thay lại khớp gối.

Kết quả của thay khớp gối, cơ bản là mất hẳn triệu chứng đau và đi lại được, không chỉ dừng lại ở kết quả đó, ngày nay chúng còn đạt được chất lượng như là khớp háng nhân tạo. Ngay sau khi thay không cần bất động và có thể  đứng và tập đi rất sớm.

Đau đó là một yếu tố chính trong việc chỉ định mổ, đồng thời chỉ định mổ phải do bệnh nhân tự quyết định lựa chọn cho mình có thay khớp nhân tạo hay không.


Biến chứng của khớp gối nhân tạo

Tất cả các can thiệp phẫu thuật gối đều cần tính tới nguy cơ biến chứng. Thậm chí cả những  biến chứng không phải là đặc trưng cho loại phẫu thuật này : biến chứng gây mê, biến chứng do tuổi già, và biến chứng do các bệnh phối hợp... Cần phải làm khám nghiệm tổng thể trước mổ để biết và đánh giá các nguy cơ này nhằm hạn chế nhiều nhất khả năng xấu có thể xảy ra.

Bác sĩ chuyên môn chỉ kể ra các biến chứng liên quan tới phẫu thuật này. Nó có thể đến sớm trong quá trình mổ, có thể đến sau một vài ngày sau mổ, cũng có thể muộn hơn nữa một vài tháng hay một vài năm.

Các biến chứng trong phẫu thuật
Nó rất hiếm, ví dụ như thương tổn động mạch ở chi dưới hay thần kinh  với những trường hợp mổ khó. Cũng có thể gẫy xương đùi, xương chày, hay bong chỗ bám của hệ thống gân duỗi (gân bánh chè) hay đứt gân cơ tứ đầu,...

Biến chứng sớm

Nhiễm trùng
Trội hơn cả là nhiễm trùng. Nhiễm trùng là nguy cơ của tất cả các phẫu thuật. Ở gối biến chứng nhiễm trùng càng nặng hơn, nhưng cũng nhấn mạnh rằng biến chứng này rất hiếm gặp. Theo dõi để phát hiện sớm nhiễm trùng, xảy ra sau phẫu thuật vài  tuần đầu, thấy xuất hiện dấu hiệu đau, sốt , gối sưng to, chảy dịch ở vết mổ,... . Cần phải cấy vi khuẩn và làm kháng sinh đồ để điều trị kháng sinh cho phù hợp, không phải chỉ có thế là khỏi bệnh, cần phải theo dõi diễn biến nhiễm trùng, thực tế phải mở lại gối để rửa sạch. Với biện pháp điều trị tích cực như trên thông thường  sẽ khỏi được nhiễm trùng.

Các biến chứng khác :
  • Tắc mạch : Là hình thành các cục máu đông ở trong tĩnh mạch, nó có thể giải quyết được bằng điều trị chống đông dự phòng. Biến chứng này có thể đưa lại những nguy cơ rất nặng: nhồi máu phổi.
  • Máu tụ trong gối: điều trị chống đông là cần thiết tuy nhiên đó lại là điều kiện thuận lợi cho biến chứng máu tụ trong gối. Cần phải mổ lại để lấy khối máu tụ này.
  • Hội chứng thiểu dưỡng thần kinh cơ (syndrome neuro-algo-dystrophique) rất hiếm xảy ra: nó có đặc tính làm cứng gối sớm, phối hợp với đau và phù nề. Cần phải điều trị bằng thuốc tương đối lâu .
  • Cứng gối: Cứng khớp gối có thể thấy sau những can thiệp vào khớp gối, đặc biệt sau khi thay khớp, nguyên nhân là do dính trong khớp, là sự tổ hợp của nhiều yếu tố: đau sau phẫu thuật gây khó khăn trong luyện tập, phản viêm mạnh ở khớp gối, sau biến chứng máu tụ trong khớp,...Vận động cưỡng bức khớp gối " bẻ khớp" dưới gây mê toàn thân cải thiện đáng kể biên độ vận động cũng như giảm đau cho bệnh nhân. Đây là một thao tác nhỏ, chỉ cần gấp chân của bệnh nhân đủ để làm đứt các thành phần dính ở trong khớp. Chỉ định này nên làm sớm sau phẫu thuật, không nên để quá lâu, các dây chằng dính chặt lại sẽ rất khó thực hiện.

Biến chứng thì hai (thứ phát)
Biểu hiện bằng tình trạng  nhiễm trùng gối muộn , tình trạng cứng khớp hay các biến chứng cơ học của khớp nhân tạo.

Nhiễm trùng muộn hiếm gặp, nguyên nhân là do sự di nhập của các vi khuẩn từ nơi khác tới ( Abces răng, nhiễm trùng tiết niệu, nhiễm khuẩn ruột,...) Điều này có nghĩa là cần phải điều trị nghiêm túc với tất cả các nhiễm trùng ở trên người bệnh có mang khớp nhân tạo. Khi khám bệnh với bác sĩ nội khoa cần trình bày rõ là mình đã được thay khớp. Điều trị loại nhiễm khuẩn muộn này thông thường là phải thay lại khớp mới. Trong trường hợp thất bại khi thay lại, chỉ còn cách làm cứng khớp.

Cứng khớp Sau mổ thời gian dài không được phát hiện để "bẻ " khớp dưới gây mê toàn thân, khớp gối trở nên rất cứng, gây hạn chế chức năng nhiều. Khi này cần phải chỉ định mổ để gỡ dính gối (can thiệp này nhằm cắt bỏ các thành phần dính trong gối )

Các biến chứng cơ học gây ra do khớp nhân tạo, đôi khi phải thay lại khớp mới.
  • Không vững có thể xảy ra ở khớp gối với mâm chày di động, hệ thống dây chằng bị trùng trong khi chất lượng còn tốt, biểu hiện: không vững bánh chè có khi bị trật ra  ngoài, không vững giữa xương đùi và xương chày.
  • Mòn khớp. Đây là một nguy cơ không mong muốn của tất cả  các loại khớp nhân tạo. Sử dụng khớp với  mâm chày di động sẽ giảm được nguy cơ này. Nguy cơ của biến chứng này làm giảm tuổi thọ của khớp rất nhiều.
  • Lỏng xi măng xuất hiện các vận động bất thường giữa khớp nhân tạo và xương ở vị trí tiếp xúc nhau, đó cũng là nguyên nhân gây đau. Biến chứng này chỉ xảy ra với các khớp có dùng xi măng, còn với khớp không dùng xi măng thì xương sẽ cắn chặt vào bề mặt bên ngoài của khớp.
  • Gẫy xương chấn thương có thể là nguyên nhân của gẫy xương đùi, xương chày, hay bánh chè, tiếp xúc trực tiếp với khớp thay thế, cũng có khi vỡ cả khớp nhân tạo. Đôi khi  không do chấn thương , khớp vẫn tự vỡ do "mệt mỏi" của kim loại (fractures « de fatigue»).
Liệt kê các biến chứng trên đây giúp ta khỏi  quên các biến chứng của phẫu thuật thay khớp gối (cho dù ít gặp)


Chỉ định : Khi nào thì phải mổ thay khớp?

Câu trả lời đơn giản là : Khi nào quá đau !

Khi điều trị bằng thuốc không hiệu quả phải dừng lại thì khi đó phẫu thuật mới được đưa ra. Thông thường, khi đau xuất hiện thì phải điều trị thuốc. Mục đích của phương pháp là giảm đau, mà không có bất cứ một tác động nào trên sụn khớp. Nên không có bất cứ một tác động lên sự thoái hoá khớp cũng như không cản trở được tiến trình của thoái hoá khớp.

Đau là một cái cớ chính để chỉ định mổ. Chỉ định mổ mang tính cá nhân, không phải là bác sĩ nội khoa, không phải là phẫu thuật viên, cũng không phải gia đình hay người xung quanh mà chính là do dấu hiệu đau của bệnh nhân quyết định, có nghĩa là cần có sự trao đổi giữa người bệnh và bác sĩ, người thầy thuốc nói cho bệnh nhân những thông tin cần thiết: như tiến bộ của thay khớp, nhưng lợi ích sau khi thay, đồng thời cũng cần chỉ rõ những điểm bất lợi , nhưng nguy cơ biến chứng thậm chí rất nặng với tuổi già, và với bệnh mãn tính của bệnh nhân. Để rồi bệnh nhân cân nhắc và chỉ định mổ sẽ do chính bệnh nhân quyết định.

Cần phải xem lại chỉ định của mình, không được có chỉ định thay khớp "dự phòng", ví dụ: không được chỉ định  mổ vì sợ phải mổ khi bệnh nhân già hơn. Càng không đựơc chỉ định mổ khi thoái hoá còn chưa quá nặng, về chức năng nó vẫn còn đảm đương được. Nhắc lại là khớp nhân tạo chỉ thay thế cho sụn khớp đã hỏng nặng. Như thế can thiệp có thể phải chờ thêm một thời gian để có điều kiện tốt hơn, và sụn khớp hỏng nặng hơn. Tuy nhiên, không được để khớp gối đến tình trạng cực nặng, biến dạng quá nhiều, như thế rất khó khăn cho phẫu thuật: nếu chưa có các nguy cơ này thì cần phải theo dõi trên phim (radio) thường xuyên để phát hiện và chỉ định mổ cho kịp thời.

Tuổi là một yếu tố quan trọng trong chỉ định mổ. Chúng ta đã biết  tuổi thọ của khớp nhân tạo không phải là vĩnh viễn do nguy cơ mòn khớp cũng như lỏng xi măng. Thay khớp cho những người trẻ tuổi có nhiều nguy cơ hỏng khớp nhân tạo sớm hoạt động nhiều và thời gian sống còn quá dài. Chính lý do này các phẫu thuật viên muốn tránh không phải thay lại khớp gối lần hai nên khuyên không nên mổ thay khớp ở người trẻ.

Người ta vẫn muốn thay khớp tại thời điểm muộn nhất nếu có thể, thực tế là không thể tìm ra được một chỉ số về tuổi, về mức độ đau, những biến dạng khớp, hay các bệnh khác về khớp để chỉ định mổ. Với người trẻ đục xương sửa trục vẫn là chỉ định tốt hơn so với thay khớp gối.

Với sự hiểu biết về khớp nhân tạo, có thể đưa ra chỉ định ngoại khoa tuỳ thuộc tuổi, vào mức độ đau và sự cản trở chức năng trong cuộc sống hàng ngày. Không có một lý do nào để chỉ định mổ thay khớp gối sớm khi chưa cần thiết. Những kết quả thu thập được trong năm 2001,  nó cũng không hoàn toàn được tốt, đặc biệt với người già, vậy không nên quá lợi dụng thay khớp gối khi mức độ đau và biến dạng chưa quá trầm trọng.


Các lời khuyên trong điều trị thoái hóa và đau khớp gối

Mặc dù bất cứ khớp nào trong cơ thể đều có nguy cơ thoái hóa khớp, nhưng khớp gối lại thường bị nhất. Đau khớp gối có thể ảnh hưởng đến mọi hoạt động thường ngày như đi bộ hoặc đi lên cầu thang, và điều quan trọng là tìm ra cách để xử trí nó. Các phác đồ điều trị hiện tại khuyến nghị cách tốt nhất để điều trị cơn đau khớp gối là phối hợp nhiều phương pháp tự điều trị.

1. Tập thể dục nhiều hơn
Có vẻ như hơi ngược đời khi khuyên bệnh nhân tập thể dục trong khi họ đang bị đau khớp gối, nhưng các chuyên gia khuyến nghị việc tập thể dục như là bước đầu tiên trong điều trị cơn đau. Có 3 loại thể dục có thể giúp bệnh nhân:
  • Thể dục giúp tăng cường sức mạnh: các bài tập thể dục tăng cường sức mạnh có thể giúp cho các cơ xung quanh khớp gối trở nên mạnh hơn, có tác dụng chống đỡ tốt và bảo vệ khớp gối.
  • Sự linh hoạt: Loại thể dục này giúp tăng cường tính cử động của khớp. Đây là những tài tập thể dục đặc hiệu có thể giúp tăng cường sự linh hoạt, và cũng nên thử các loại hình thể dục như là thái cực quyền hoặc yoga để giúp cơ thể trở nên dẻo dai hơn.
  • Aerobic. Để giúp tăng cường sức khỏe tổng quát, nên thử các môn thể dục aerobic. Nhưng cẩn thận không được tập các môn thể dục gây tổn thương nhiều hơn cho khớp gối như chạy chẳng hạn. Thay vào đó, thử các môn thể dục nhẹ nhàng hơn như đi bộ hoặc đi bơi. Thậm chí lúc đi bộ cũng nên tránh đi lên hoặc xuống các đồi dốc vì điều này làm tăng thêm các áp lực lên khớp gối, chỉ nên đi bộ trên các khu vực bằng phẳng. Trước khi bắt đầu bất cứ bài tập thể dục nào, hãy tư vấn trước với bác sĩ, vì họ có thể giúp bạn thiết lập một chương trình tập thể dục phù hợp cho chính bạn.
2. Làm từng bước
Một điều quan trọng mà bạn cần nhận ra đó là bạn phải học cách làm từng bước các công việc hàng ngày, vì nếu không bạn sẽ có nguy cơ làm quá sức một việc gì đó và gây ra những tổn thương nhiều hơn cho khớp gối của bạn. Sẽ cần một thời gian và luyện tập để lấy lại cân bằng giữa việc làm việc và để cho khớp bạn nghỉ ngơi đều đặn.

3. Giữ vóc dáng
Nếu thừa cân sẽ tạo thêm áp lực lên khớp gối. Các nghiên cứu cho thấy tình trạng thừa cân sẽ làm tăng nguy cơ thoái hóa khớp gối. Cụ thể hơn, cứ tăng kí lô trọng lượng cơ thể, bạn sẽ tăng nguy cơ thoái hóa khớp gối lên 40%. Điều ngược lại cũng đúng: cứ giảm kí lô trọng lượng cơ thể, bạn sẽ giảm được 40% nguy cơ thoái hóa khớp gối. Các phác đồ điều trị đều khuyến cáo việc giảm cân như là một phương pháp chính trong điều trị đau khớp gối.

4. Kiểm soát cơn đau
Bên cạnh tập thể dục và giảm cân, việc sử dụng các thuốc giảm đau cũng có thể giúp kiểm soát cơn đau. Các phác đồ điều trị trên thế giới đều khuyên dùng paracetamol như là thuốc giảm đau đầu tay trong điều trị đau do thoái hóa khớp. Paracetamol có thể sử dụng liều tối đa lên tới 4g/ngày để giúp kiểm soát cơn đau.
Các phương pháp điều trị khác bao gồm việc sử dụng thuốc giảm đau nhóm NSAID đường uống và đường ngoài da bôi trực tiếp lên vùng khớp gối bị đau.
Chỉ sử dụng thuốc giảm đau như hướng dẫn và theo đúng chỉ định ghi trên tờ hướng dẫn vào mọi lúc.

5. Mang giày phù hợp
Việc lựa chọn một đôi giày phù hợp có thể tạo nên sự khác biệt thật sự. Các chuyên gia khuyên sử dụng các đôi giày và đế lót giày có khả năng chống shock. Chọn những đôi giày đế thấp và có dây buộc và có khả năng chống đỡ gót chân và tránh sử dụng giày cao gót và giày sandal.

6. Thử các liệu pháp nhiệt nóng và lạnh
Đắp túi nóng hoặc cao dán hoặc nước đá vào chỗ đầu gối cũng được khuyến nghị là các biện pháp hỗ trợ để giảm đau khớp gối bên cạnh các phương pháp khác.

7. Hỗ trợ đầu gối
Sử dụng nẹp gối được khuyến cáo là một biện pháp bổ sung để hỗ trợ khớp gối. Nó có thể giúp giảm đau, làm cho khớp gối vững chắc hơn, và cũng làm giảm nguy cơ bị "lắc lư" khớp gối.

8. Sử dụng xung điện
Kích thích thần kinh bằng điện qua da (Transcutaneous electrical nerve stimulation (TENS)) cũng có thể được sử dụng. Các máy TENS hoạt động bằng cách truyền những xung điện nhỏ vào các dây thần kinh trên da, giúp chặn đứng các tín hiệu cảm giác đau.