vendredi 28 novembre 2014

SỨC KHOẺ : Bệnh Nám da


Trương Thanh Long
Sưu tầm - Biên soạn - Bình Luận


Theo thống kê, tại Việt Nam tỉ lệ phụ nữ bị nám da chiếm khoảng 60-70% tập trung ở độ tuổi sau 30 – một tỉ lệ mà ít ai ngờ tới lại cao đến như vậy. Nám da không ảnh hưởng tới sức khỏe nhưng lại ảnh hưởng tới mặt thẩm  mỹ, đặc biệt những vết nám lại thường xuất hiện ở khu vực vùng mặt gây giảm, mất tự tin cho chị em, bởi với hầu hết người phụ nữ họ đều hiểu sự hiển hiện của vết nám vừa tố cáo vẻ đẹp đã bắt đầu xuống cấp cũng như tố cáo những dấu hiệu của tuổi già, độ tuổi thanh xuân bắt đầu đi qua.


Nám da là gì?

Màu da trắng hay đậm màu là do sắc tố da melanin quyết định. Tỉ lệ melanin càng cao da càng đậm màu. Vì một lý do nào đó gây sinh ra quá nhiều sắc tố melanin và tập trung không đều sẽ hình thành những mảng da đậm màu hơn các vùng khác.

Nám da là hiện tượng tăng cao sắc tố da, đa phần phụ nữ bị nám sau tuổi 30. Nám da thường có màu nâu, xám hoặc đen. Thường hình thành từng mảng đối xứng trên gương mặt và cũng thường nằm rãi rác từng đốm nhỏ hay từng mảng trên gương mặt.


Nám da là tình trạng trên khuôn mặt xuất hiện những đốm tròn nhỏ, sậm màu, có màu vàng, nâu vàng, nâu sáng nhưng phần lớn là màu nâu đen… ảnh hưởng trực tiếp đến tính thẩm mỹ trên cơ thể con người. Nám thường mọc tập trung thành từng mảng, phân bố chủ yếu ở hai bên gò má, mũi, trán, cằm. Bản chất của nám da là sự phát triển quá mức của các sắc tố melanin ở lớp đáy và trung bì. Tàn nhang thường xuất hiện ở những người có làn da đẹp, trắng, mỏng, mịn. Càng để lâu nám da càng có xu hướng lan rộng, đậm màu lên và khó chữa trị hơn.

Thông thường, có 3 loại nám sau :
  1. Nám sâu : những đốm nâu sẫm màu có chân nám nằm sâu dưới chân bì của da.
  2. Nám mảng : những nốt nám xuất hiện thành từng mảng trên bề mặt da, có màu nâu nhạt.
  3. Nám hỗn hợp : sự kết hợp của 2 loại nám trên, vừa mọc thành mảng, vừa có chân nám ăn sâu dưới bề mặt da.

Nguyên nhân


Có rất nhiều nguyên nhân gây nám da có thể kể tới, nhưng có thể chia ra thành hai nguyên nhân chính sau.

Từ bên trong cơ thể
  • Do di truyền.
  • Do sự thay đổi nội tiết: mang thai, mãn kinh, rối loạn kinh nguyệt,…
  • Mắc các bệnh phụ khoa mãn tính như viêm tử cung, viêm phần phụ, các bệnh về gan, giun sán, sốt rét. Di chứng sau điều trị các bệnh ngoài da vùng mặt để lại.
  • Do tâm trạng, tâm lý tinh thần, trạng thái tinh thần căng thẳng kéo dài.

Từ yếu tố bên ngoài
  • Do chế độ ăn uống, nghỉ ngơi, sinh hoạt không hợp lý.
  • Do sử dụng thuốc, mỹ phẩm không đúng cách.
  • Do sử dụng thuốc tránh thai thời gian dài.
  • Do tác động của môi trường bên ngoài như ánh nắng mặt trời, khói bụi, ô nhiễm,…

Nám da hình thành có thể bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân khác nhau: như do tiếp xúc nhiều với ánh nắng mặt trời: Các tia UV trong ánh nắng khi chiếu vào da làm cho da bị sậm màu, nếu tiếp xúc thường xuyên sắc tố melanin tăng lên để bảo vệ da, đồng thời do sự tăng sinh melanin mà các vết nám từ đó cũng xuất hiện. Do đó cần hạn chế việc để da tiếp xúc trực tiếp với ánh nắng mặt trời đặc biệt trong những thời điểm ánh nắng chứa nhiều UV có hại như từ 10h sáng đến 3h chiều. Khi đi ra nắng cần có biện pháp che chắn và sử dụng kem chống nắng phù hợp.


Bên cạnh do ánh nắng, việc hiện nay trên thị trường có vô vàn các sản phẩm mỹ phẩm làm đẹp, việc lạm dụng các dòng mỹ phẩm chứa chất tẩy da mạnh, tẩy trắng nhanh, các mỹ phẩm chứa thành phần corticoid, khởi đầu người dùng sẽ cảm giác da mịn màng và trắng lên rất nhanh, nhưng chỉ một thời gian sau đó có thể lĩnh những hậu quả không ngờ tới mà phổ biến nhất là sạm da, nám da, thậm chí teo da, da không đều màu, các vùng nám đen đậm. Do đó trước khi dùng một loại mỹ phẩm nào, cần tìm hiểu rõ thông tin về sản phẩm, độ an toàn, uy tín của nhà sản xuất, thậm chí cần thiết nên đi khám để nhận được lời khuyên hữu ích từ các bác sỹ da liễu.


Nám da do nội tiết, tuổi tác – nguyên nhân chính

Trong các nguyên nhân gây nám da, nguyên nhân phổ biến nhất là nám da do nội tiết, tuổi tác, điều này lý giải vì sao nám da thường gặp ở phụ nữ sau 30 tuổi, phụ nữ mang thai, sau sinh.


Đi cùng với thời gian, tất cả các bộ máy trong cơ thể đều lão hóa dần, buồng trứng cũng lão hóa và giảm tiết nội tiết tố estrogen – mà đối với phụ nữ nội tiết tố estrogen chính là khơi nguồn duy trì nét đẹp nữ tính, làn da mịn màng, căng hồng. Do thiếu hụt nội tiết tố kèm theo tuổi tác từ đó da cũng vậy bắt đầu giảm độ đàn hồi, xuất hiện các vết nhăn, vết chân chim, chảy xệ dần, các vết sạm, nám da bắt đầu xuất hiện. Vấn đề tuổi tác con người không thể quay ngược được thời gian, nhưng nếu có biện pháp chăm sóc da đúng cách, duy trì dinh dưỡng, bổ sung các thành phần chống lão hóa, bổ sung nội tiết tố thì làn da vẫn có thể duy trì được vẻ đẹp mịn màng, thanh xuân so với những người cùng độ tuổi khác.


Một góc cạnh dễ quan sát nhất của quá trình nám da do nội tiết là ở phụ nữ bị rối loạn kinh nguyệt, phụ nữ mang thai hay sau sinh: có tới hơn 60% phụ nữ bị nám da sau quá trình sinh con lý do trong giai đoạn này có sự biến đổi liên tục việc tăng giảm nội tiết estrogen.  Do đó để cải thiện nám da do nội tiết tố, tuổi tác, chị em cần bổ sung dinh dưỡng đầy đủ, uống nhiều nước, ăn nhiều rau quả xanh, các loại thực phẩm giàu vitamin C, A, E hỗ trợ chống lão hóa đặc biệt cần bổ sung các loại thực phẩm giàu nội tiết tố nữ estrogen như các loại lúa mạch, vừng, đậu đỗ đặc biệt các thực phẩm từ đậu nành như sữa đậu nành, đậu phụ, mầm đậu nành.


Các cách điều trị nám da phù hợp với từng tình trạng nám

Đối với trường hợp bị nám nhẹ

Nám da ở thể nhẹ là khi làn da có những vết sạm nhỏ, nhạt màu, mọc rải rác. Trong trường hợp này, bạn có thể áp dụng các cách trị nám như sau :

  • Bôi kem dưỡng da, bảo vệ da theo đúng chỉ định của các bác sĩ
  • Sử dụng một số loại mặt nạ dưỡng ẩm từ thiên nhiên (mặt nạ dưa chuột, lô hội, sữa chua)
  • Tránh tiếp xúc với ánh sáng mặt trời và môi trường ô nhiễm
  • Bổ sung nhiều rau xanh, hoa quả để cung cấp các loại vitamin A, B, E giúp da tái tạo và hồi phục hư tổn
Tuy nhiên, các giải pháp này chỉ có tác dụng mang tính hỗ trợ việc chữa nám da chứ không thể loại bỏ triệt để, tận gốc các vết nám.


Đối với trường hợp bị nám nặng

Lúc này, làn da bị sạm đen, quầng nám xuất hiện rõ rệt, chân nám ăn sâu vào lớp biểu bì da. Bạn không nên vội vàng sử dụng các loại kem hay mỹ phẩm trị nám da. Bởi, có rất nhiều sản phẩm không rõ nguồn gốc xuất xứ, chứa nhiều chất kích thích da, khiến da bạn bị tổn thương nghiêm trọng và có khả năng bị nám suốt đời. Bạn nên gặp trực tiếp các bác sĩ da liễu để được tư vấn và hỗ trợ. Theo các chuyên gia, để trị dứt điểm nám, bạn nên áp dụng các giải pháp công nghệ cao, tác động trực tiếp vào vùng điều trị, tiêu diệt và phá hủy hoàn toàn chân nám.


Làm mờ nám da do nội tiết nhờ tinh chất mầm đậu nành

Từ bao đời nay,  đậu nành đã được coi là một loại thực phẩm dinh dưỡng tuyệt vời cho sức khỏe và sắc đẹp phụ nữ, được coi là món quà từ thiên nhiên mà tạo hóa ban tặng cho chị em để gìn giữ duy trì tuổi thanh xuân, ngăn ngừa các dấu hiệu lão hóa như da khô, nám da, tàn nhang… thậm chí cải thiện các vấn đề tế nhị liên quan tới nội tiết tố nữ như suy giảm khả năng sinh lý, duy trì hạnh phúc viên mãn vợ chồng.


Đậu nành có tác dụng hữu ích đối phụ nữ như vậy là do bản thân đậu nành chứa 1 hoạt chất có tên isoflavon, isoflavon này có tác dụng giống như nội tiết tố nữ estrogen được mệnh danh là estrogen nguồn gốc thảo dược. Nhờ bổ sung isoflavon mà các vết sắc tố bắt nguồn từ sự thiếu hụt nội tiết tố estrogen như nám da ở phụ nữ sau 30 tuổi giảm đi đáng kể, thậm chí có thể mất tùy thuộc vào mức độ đậm nhạt, độ lan rộng ăn sâu của vết nám. Không chỉ làm mờ vết nám, isoflavon trong đậu nành còn có tác dụng làm đẹp da nói chung giúp da dẻ căng mịn, tăng độ đàn hồi, giảm các nếp nhăn, giúp tóc bóng khỏe.

Để tiện cho việc sử dụng và tăng cường hiệu quả, hoạt chất thần kỳ isoflavon ngày nay đã được công nghệ dược phẩm tiên tiến chiết xuất thành công chứa trong tinh chất mầm đậu nành.  Mức độ tác dụng, hiệu quả của tinh chất mầm đậu nành phụ thuộc vào quy trình chiết xuất, dây chuyền sản xuất và quan trọng nhất là hàm lượng isoflavon chứa trong tinh chất mầm đậu nành.

Khoa học đã và đang khám phá thêm những tác dụng thần kỳ của loại hợp chất này. Tuy nhiên với những bằng chứng khoa học hiện tại các cơ quan y tế và các bác sỹ khuyến khích phụ nữ hãy chọn cho mình một chế phẩm từ tinh chất mầm đậu nành uy tín chất lượng được sản xuất theo quy trình công nghệ đảm bảo, nhãn mác đầy đủ xuất xứ, thời hạn sử dụng và được đông đảo người dùng tin tưởng.


Tóm tắc cách phòng chống & cách điều trị

Cách phòng chống
  • Tránh tiếp xúc trực tiếp với ánh nắng mặt trời đặc biệt vào giờ cao điểm: từ 10h đến 15h chiều.
  • Tránh để tinh thần căng thẳng lâu ngày, nên ngủ mỗi ngày từ 7 – 8h, dành thời gian thư giãn, tập thể dục thường xuyên.
  • Xây dựng chế độ ăn uống hợp lí, bổ sung nhiều vitamin từ hoa quả và rau xanh để tăng sức đề kháng cho làn da từ bên trong.
  • Hạn chế sử dụng các loại mỹ phẩm làm trắng da, chống nám da, chỉ có tác động tức thời. Bởi những loại này có chứa nhiều chất tẩy mạnh, lúc mới dùng sẽ tẩy trắng da, làm đẹp da, nhưng dùng thời gian lâu, càng ngày lớp da bị bào mòn, sẽ xuất hiện lớp da non. Khi đó, bạn đi nắng nhiều rất dễ bị nám. Ngoài ra, trong kem có lượng nhỏ thủy ngân, nếu dùng lâu dài sẽ gây ra teo da, dẫn đến hiện tượng nám da vĩnh viễn.
  • Tăng cường sức khỏe, sức đề kháng cho da từ bên ngoài bằng việc chăm sóc da với các sản phẩm nguồn gốc thiên nhiên có tác dụng phục hồi và bảo vệ làn da.

Cách điều trị

Khi bị nám việc đầu tiên là đi khám bác sỹ chuyên môn để xác định đúng nguyên nhân gây nám thì mới có thể điều trị hết nám. Tuy cơ thể chúng ta có khả năng tự điều chỉnh, tự giải độc chữa trị cho các rối loạn ở da nhưng cần tuân thủ những chỉ định điều trị cùng một chế độ sinh hoạt, bổ sung dinh dưỡng hợp lí khoa học để phục hồi sức khỏe da từ bên trong và tăng sức đề kháng bảo vệ làn da từ bên ngoài.
  • Điều chỉnh chế độ ăn uống: Bổ sung các loại thực phẩm tốt cho da và cho cơ thể, ăn nhiều rau và hoa quả. Cung cấp cho cơ thể các chất như vitamin C, Beta carotene, vitamine E,… Uống nhiều nước, ngủ đủ giấc,… Cần chánh các thức ăn cay nóng làm xung huyết da, các loại rượu, bia, …
  • Lột da mặt: Có thể sử dụng một vài phương pháp lột da mặt. Tuy nhiên biện pháp này không được khuyên dùng bởi biện pháp lột da trị nám là phá hủy tế bào biểu bì tạo hắc tố bề mặt ẩn dưới lớp biểu bì. Nhưng một số tế bào biểu bì tạo hắc tố có thể nằm sâu hơn mức axit có thể thâm nhập. Kết quả là các tế bào này sẽ bám vào các tế bào khác để truyền sắc tố. Các nốt nám lại xuất hiện trở lại. Ngoài ra, phương pháp lột da đòi hỏi một chế độ phòng ngừa nghiêm ngặt trong vòng vài tháng. Nếu bạn không kiêng cữ được da bạn có thể rơi vào tình trạng nám vĩnh viễn.
  • Sử dụng các sản phẩm thiên nhiên làm giảm nám, tăng sức khỏe cho làn da.



dimanche 23 novembre 2014

SỨC KHOẺ : Thoái hoá khớp gối (Arthrose du genou)


Trương Thanh Long
Sưu tầm - Biên soạn - Bình Luận


Khớp gối là khớp rất quan trọng, gánh toàn bộ cơ thể và là khớp vận động nhiều nhất chính vì thế nó rất dễ bị thoái hóa. Khi bị thoái hóa khớp gối người bệnh sẽ bị giảm chức năng sinh hoạt hằng ngày, gây khó khăn trong vận động, đi lại, ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống. Vì thế cần phát hiện sớm bệnh để ngăn ngừa quá trình thoái hóa thêm, hạn chế tàn phế xảy ra.


Bảo vệ sụn khớp - vai trò quan trọng với thoái hóa khớp

Một nghiên cứu công bố năm 1990 cho: Khoảng 52% người trên 35 tuổi và 80% người trên 70 tuổi có ít nhất một tổn thương thoái hóa khớp. Các nhà nghiên cứu bắt đầu tìm hiểu và khám phá ra những nguyên do làm hư hại sụn khớp - tổn thương chính của bệnh thoái hóa khớp.

Sụn khớp là phần bao bọc 2 đầu xương, nơi 2 đầu xương tì lên nhau khi khớp cử động. Sụn khớp bình thường có bề mặt trơn, nhẵn bóng, rất cứng và chịu đàn hồi tốt, chịu ma sát do vậy, giúp 2 đầu xương trượt lên nhau một cách dễ dàng. Đồng thời tăng khả năng chịu lực, giúp khớp thích nghi được với những cử động mạnh (chạy nhảy), áp lực lớn (bê vác nặng…).


Sụn (cartilage) là lớp tế bào nom trong như thạch, rất bền và dai, không có mạch máu và dây thần kinh. Công dụng giảm ma sát khi khớp cử động. Quan trọng như vậy mà sụn lại gồm những tế bào rất mỏng manh, khó nuôi cấy, dễ thoái hóa và khó tái tạo sau khi bị chấn thương. Cho nên sụn sẽ bị suy yếu khi khớp bất động, không được dùng tới.

Sụn chứa 75% nước khi khớp cử động,nước đó ra vào thấm qua màng hoạt dịch xương khớp. Khớp nằm trong một cái túi mà tế bào mặt trong túi tiết ra một hoạt dịch lỏng nhờn như dầu để làm khớp trơn tru trườn lên nhau khi co duỗi, cử động. Hoạt dịch cũng là nguồn cung cấp chất bổ dưỡng cho sụn vì sụn không có mạch máu.

Sụn khớp dễ thoái hóa
Cùng đảm nhiệm chức năng chung của hệ thống xương khớp, nâng đỡ và vận động, sụn khớp là nơi chịu tác động trực tiếp của nhiều áp lực: lực nén, lực ma sát. Vì vậy sụn rất dễ bị bào mòn cơ học, bên cạnh đó, các gốc tự do và các enzym (collagenase, phospholipase A2…) sinh ra trong quá trình vận động cũng là các tác nhân gây hủy hoại sụn khớp.

Khi trẻ, hệ thống xương và sụn khớp được cơ thể điều tiết mức độ cân bằng, nhưng khi có tuổi sự cân bằng mất dần quá trình tổng hợp bị suy giảm dẫn tới sự lão hóa và suy giảm chức năng trong khi tế bào sụn khớp (tế bào đảm nhiệm chức năng tổng hợp) lại không có khả năng tăng sinh; đặc biệt là sự thiếu hụt các nguyên liệu cần thiết cho quá trình tổng hợp (thường được bổ sung từ nguồn thực phẩm).

Do vậy, phần sụn khớp dần mất đi không được bù đắp lại dẫn tới biến đổi về cấu trúc: mỏng, dẹt, xơ hóa, mềm, yếu, thậm chí có thể mất đi để lộ phần xương dưới sụn. Từ đó dẫn tới suy giảm chức năng: giảm khả năng chịu lực, chịu ma sát, khiến khớp cử động đau.

Giải pháp phòng tránh cần bổ sung dưỡng chất cải thiện cấu trúc khớp bị thoái hóa
Glucosamine: Đây là chất người ta tìm thấy trong thành phần của sụn khớp do cơ thể tự sản sinh. Thoái hóa khớp là sự bào mòn các thành phần sụn khớp, gây tình trạng chết tế bào sụn.

Trước đây glucosamine được xếp vào nhóm thuốc bảo vệ sụn (gồm có glucosamine sulfate, Chondroitin sulfate và Diacerin) hay thuốc tác dụng chậm với các bệnh viêm khớp. Hiện nay nó được cơ quan Dược phẩm châu Âu (EMEA) chấp nhận xét vào danh mục thuốc giúp cải thiện cấu trúc trong bệnh viêm khớp.

Methylsulfonylmethan (MSM): Đây là một hoạt chất có chứa nhóm lưu huỳnh có tác dụng chống viêm được bổ sung nhiều trong bệnh khớp đặc biệt viêm khớp.

Trong các thí nghiệm sử dụng phóng xạ đánh dấu lưu huỳnh, đã chỉ ra rằng sau khi uống, MSM cung cấp lưu huỳnh cho các axit amin thiết yếu như methionine, cysteine, và các protein huyết thanh khác, cuối cùng cũng tìm thấy nó có trong collagen của da, khớp xương, máu và mạch máu.

MSM cũng được tích hợp vào keratin của tóc và móng. Các nghiên cứu trên động vật đã chỉ ra rằng các khớp bị ảnh hưởng bởi viêm xương khớp có nồng độ lưu huỳnh thấp hơn, và những con chuột bị viêm khớp được bổ sung MSM sụn khớp ít bị phá hủy hơn.

Trong một thử nghiệm ở những người bị viêm xương khớp, kinh nghiệm cho thấy người tham gia nghiên cứu được bổ sung MSM có sự giảm đau rõ rệt đáng kể hơn so với người không dùng. MSM cũng được biết đến là rất an toàn và không độc hại.

Chondroitin: là chất được tự nhiên được sản sinh trong cơ thể. Các nhà nghiên cứu Nhật Bản đã tìm ra chondrointin có vai trò trong việc quyết định tính đàn hồi và co giãn của các màng và chất lỏng.

Một nghiên cứu gần đây của các nhà khoa hoc Belgium cho biết chondroitin có tác dụng ảnh hưởng lớn tới tế bào cartilage. Glucosamin và chondroitin là hai thành phần chính tham gia quá trình xây dựng cấu trúc khớp, chúng có chức năng ức chế và kìm hãm hoạt động của các tác nhân gây ra quá trình hủy hoại khớp.

Việc bổ sung hai dưỡng chất này là đặc biệt quan trọng cho bộ khung xương của chúng ta, nếu có điều kiện ta nên sử dụng từ trẻ bởi vì xây dựng, phục hồi và tái tạo sụn khớp là một quá trình, được thực hiện trong thời gian dài.


Triệu chứng của bệnh thoái hoá khớp gối



  • Người bị bệnh thoái hoá khớp gối thường có cảm giác đau vùng khớp gối, lúc đầu đau nhẹ nhàng, đau chủ yếu về đêm.
  • Đôi khi cảm giác cứng khớp gối, nhất là sáng sớm lúc vừa ngủ dậy, sau một lúc đi lại nghỉ ngơi thấy đỡ đau hơn, thấy dễ chịu hơn.
  • Đau quanh khớp gối, đôi khi chỉ một vài điểm, đau tăng hơn khi đi lên cầu thang hoặc khi ngồi xổm xuống.
  • Có khi khớp gối bị sưng lên, chứa nhiều dịch bên trong mà nhiều người gọi là tràn dịch khớp. Nếu chọc hút thì đau sẽ giảm xuống nhưng mấy ngày sau khớp sưng trở lại.
  • Những trường hợp nặng khớp gối bị biến dạng vẹo vào trong, mà nhiều người gọi là chân vòng kiềng.
  • Người bệnh đi đứng rất đau, phải dùng khung hoặc nạng hổ trợ. Gập duỗi gối bị hạn chế.


Chữa thoái hóa khớp gối bằng vật lý trị liệu

Điều trị vật lý trị liệu không chỉ giảm đau, giảm phù nề, tăng lực cơ, tăng tầm vận động khớp gối mà còn phục hồi các chức năng sinh hoạt hằng ngày của người bệnh.

  • Giảm đau, tăng tuần hoàn: chiếu đèn hồng ngoại, chườm nóng, chiếu thấu nhiệt vi sóng, điều trị bằng các dòng điện giảm đau (dòng Ten, dòng giao thoa…), sóng siêu âm giảm đau, kháng viêm, làm mềm tổ chức tổn thương xơ sẹo trong sâu, hướng dẫn sử dụng băng thun hoặc bó gối để cố định khớp gối khi đi lại, lên xuống cầu thang.
  • Huấn luyện cơ, tập mạnh các nhóm cơ gập duỗi khớp gối, các nhóm cơ gập duỗi dang áp khớp hông để hỗ trợ khớp gối tùy vào lực cơ người bệnh, gia tăng tầm vận động khớp gối, độ di động xương bánh chè: kỹ thuật P.N.F, tập đề kháng bằng tay, bằng tạ, dây thun co giãn, tập di động xương bánh chè, tập chịu sức, lên xuống cầu thang.
  • Với người bị thoái hóa khớp gối thì việc giảm cân, thay đổi lối sống như tránh ngồi xổm, tránh ngồi xếp bằng, hạn chế leo cầu thang hay leo dốc, hạn chế khiêng vác nặng là chuyện cần làm suốt đời. Có thể mang nẹp gối trong giai đoạn đang bị đau, nhưng sau đó cần phải tập cơ tứ đầu để có một khớp gối vững khi đi đứng, vì khi bị đau gối bao giờ cơ tứ đầu đùi cũng bị teo nhỏ.


Điều trị thoái hoá khớp gối bằng « thuốc » hay « chất nhờn » 

Thoái hóa khớp gối là một vị trí thường gặp nhất của bệnh thoái hóa khớp. Trong những đợt cấp của bệnh, có thể dùng các thuốc chống viêm không steroid, thuốc giảm đau đơn thuần, nhưng các thuốc này có nhiều tác dụng phụ trên đường tiêu hóa như loét dạ dày, xuất huyết tiêu hóa.

Một số thuốc chống viêm không steroid như indometacin về lâu dài lại có tác dụng có hại lên sụn khớp, làm trầm trọng thêm quá trình thoái hoá khớp (THK). Biện pháp cuối cùng là phải phẫu thuật thay khớp giả, rất tốn kém. Để khắc phục những nhược điểm này, hiện nay, biện pháp sử dụng chất nhờn (như acid hyaluronic hay dẫn xuất của nó) đã được ứng dụng rộng rãi vì tính an toàn và hiệu quả kéo dài.


Acid hyaluronic (AH) và thoái hóa khớp (THK)
Bình thường khớp gối chứa khoảng 2ml dịch khớp. Acid hyaluronic (AH) là một polysacharid có trong thành phần dịch khớp, với hàm lượng từ 2,5 - 4,0mg/ml. Nó bôi trơn mô mềm và phủ trên bề mặt sụn khớp và được tổng hợp bởi tế bào sụn. AH có nhiệm vụ đệm giảm xóc, bôi trơn và bảo vệ khớp. Nó có các tính chất nhớt và đàn hồi tùy thuộc vào lực tác động.

Nếu lực tác động lên mạnh, nó có tính chất đàn hồi, còn nếu lực tác động nhẹ thì nó như là dầu bôi trơn. Khi khớp bị thoái hóa, số lượng acid hyaluronic và chất lượng chất này trong dịch khớp bị giảm. Ở bệnh nhân THK gối, lượng acid  hyaluronic chỉ còn một nửa đến hai phần ba so với bình thường, do đó có hiện tượng dịch khớp giảm độ nhớt, mất khả năng bảo vệ sụn khớp, dẫn đến tiến triển huỷ hoại khớp.


Tác dụng điều trị của Acid hyaluronic (AH) trong thoái hóa khớp (THK)
Sự bổ sung AH trong thoái hoá khớp dẫn đến tăng kéo dài nồng độ và trọng lượng phân tử của AH nội sinh, làm cải thiện đáng kể chức năng khớp, giảm đau và tác dụng này có thể kéo dài hàng tháng. Thuốc có tác dụng giảm đau do khi tiêm vào trong khớp, nó làm giảm sản sinh các hóa chất gây viêm trong dịch khớp (PE G2, bradykinin), ức chế cảm thụ đau ở bệnh nhân THK.
AH có tác dụng kháng viêm do ngăn chặn tác dụng của cytokyne và ngăn chặn sinh tổng hợp PGE2. Tuy chỉ lưu trong dịch khớp 7 ngày nhưng duy trì tác dụng trong 6 tháng do kích thích sản xuất AH nội sinh. Các thử nghiệm trên lâm sàng đã chứng tỏ, ở người THK, việc bổ sung acid hyaluronic nội khớp có tác dụng giảm đau tốt hơn giả dược.
Thuốc đạt hiệu quả tương tự khi tiêm corticoid nội khớp song tác dụng bền vững hơn. Trong thí nghiệm trên động vật, tiêm AH còn có tác dụng bảo vệ và sửa chữa lại các tế bào sụn. AH ức chế thoái hoá sụn khớp do gia tăng hoạt tính của men TIMP (tisue inhibitor metalloprotease), kết khối các proteoglycan và tăng sinh tổng hợp của tế bào sụn khớp. Thuốc có hiệu quả tác dụng rõ rệt đối với bệnh nhân THK trên nhiều mặt, đặc biệt là cải thiện chức năng khớp.


Những trường hợp thoái hóa khớp (THK) nào được sử dụng Acid hyaluronic (AH)?
Liệu pháp tiêm sodium hyaluronate vào khớp gối có tác dụng trong điều trị THK gối từ mức độ từ trung bình đến nặng vừa. Nó có ích lợi đặc biệt đối với những bệnh nhân không đáp ứng với điều trị thông thường, không dung nạp được thuốc đặc biệt là thuốc chống viêm không steroid, cũng như  giúp trì hoãn thời gian thực hiện phẫu thuật thay khớp vốn khó khăn và tốn kém.
Có nhiều loại thuốc chứa AH. Thường là hộp 5 ống chứa 2- 2,5ml AH, AH tiêm nội khớp gối 1 ống/tuần trong 5 tuần liên tục. Khi tiêm nội khớp AH cần đảm bảo vô khuẩn khi tiến hành thủ thuật. Khi đã bóc hộp bơm tiêm ra rồi phải tiêm ngay. Nếu khớp có dịch phải hút ra rồi mới tiêm. Thuốc chỉ có hiệu quả khi tiêm hết 3 lần (synvic) hoặc 5 tuần (hyalgan). Thuốc có độ dung nạp khá tốt.
Trong một số ít trường hợp chỉ gặp đau nơi tiêm, phản ứng viêm tại chỗ, đau cơ, đau khớp, cảm giác mệt mỏi. Các triệu chứng này chỉ thoáng qua, sau 2-3 ngày là biến mất và thường chỉ gặp trong lần tiêm đầu tiên.

Mục đích chính của điều trị khớp gối là giảm đau. Cho tới nay, chưa có một phương pháp điều trị nào cho phép tái sinh lại sụn khớp đã hỏng: Những thuốc hiện đang có đều chưa có những bằng chứng chứng tỏ  tính hiệu quả của nó. Ghép sụn khớp vẫn còn trong giai đoạn thực nghiệm.

Khởi đầu bao giờ cũng điều trị bằng thuốc. Thất bại trong điều trị này cùng với dấu hiệu đau vẫn tiếp tục dai dẳng và tăng nặng lên, xuất hiện thêm  những thay đổi về hình thái của chi dưới lúc đó  mới cần có can thiệp ngoại khoa.


Điều trị ngoại khoa

Có hai khả năng của điều trị ngoại khoa:
  • Đục xương sửa trục của chi dưới để lấy lại cân bằng và phân phối lại khả năng chịu lực cho khớp gối.
  • Thay khớp gối với mục đích thay sụn khớp đã bị hỏng.

Đục xương sửa trục (Ostéotomies du genou)

Vì sao phải đục sửa trục xương ?
Mục đích của đục xương sửa trục là để điều trị thoái hoá khớp gối một bên. Trường hợp này sụn khớp bị mòn chỉ xảy ra ở một bên, (ở bên trong thường gặp hơn bên ngoài). Đục chỉnh trục là lấy bỏ hay thêm vào một mảnh xương hình chêm để chỉnh lại trục của chi dưới cho thẳng, nhằm lấy lại cân bằng lực, chuyển trọng tâm lực tỳ lên gối sang bên mặt khớp lành, giảm mức độ chịu tải cho mặt khớp đã thoái hoá nên làm chậm lại quá trình thoái khớp. Đục xương chỉnh trục không làm thay đổi được quá trình thoái hoá, nó vẫn tồn tại thoái hoá ở trên khớp, nhưng nó có hai tác dụng :
  • Làm giảm đau
  • Làm chậm lại thoái hoá cho khớp đã hỏng (khe khớp đã bị hẹp), điều này rất quan trọng ở người trẻ tuổi.
Nếu không được điều trị, thoái hoá gối một bên có nguy cơ nặng thêm, và tiến triển tới mức không thể cứu vãn được.

Lấy thoái hoá bên trong khớp làm ví dụ: do thoái hoá nên sụn khớp ở bên trong bị mỏng đi. Cẳng chân vẹo trong (varus) nên chuyển dần trọng tâm của gối vào bên trong (bên tổn thương). Vùng bệnh càng ngày càng phải chịu đựng nhiều sức ép của cơ thể, trong khi đó phần bên ngoài rất khỏe mạnh lại làm việc ít hơn. Thực sự muốn cắt vòng xoắn này chỉ còn cách là đục xương chỉnh lại trục của chi.

Kỹ thuật đục xương sửa trục


Đục chỉnh trục kiểu khép: là đục vào chỗ gồ của xương, sau đó lấy bỏ đi mảnh xương hình chêm, rồi nâng phần xương còn lại lên, dựng lại trục chi cho thẳng, sau đó cố định lại bằng các phương tiện kết hợp xương.


Đục xương kiểu mở thì ngược lại, người ta cưa xương làm đôi, sau đó lấy một miếng xương ghép, thường lấy ở xương chậu, có hình chêm rồi chèn vào giữa đường cắt xương để nâng phần mâm chày lên, chỉnh lại trục chi cho thẳng.

Đục xương chỉnh trục bắt buộc phải làm thật chuẩn,  kết hợp xương ở tại vị trí đục xương  bằng các phương tiện kết xương chắc chắn như : vis, plaque vis, agraffe,...


Có hai kiểu đục xương (có thể làm ở xương đùi, có thể làm ở xương chày) tuỳ vào biến dạng trục mà chỉnh. :
  • Đục xương vẹo ra ngoài (valgisation) để chỉnh  gối vẹo trong (genu varum)
  • Đục xương vẹo vào trong (varisation) để chỉnh gối vẹo ngoài (genu valgum).
Hậu phẫu và kết quả
Sau mổ không cần phải bất động (sử dụng đinh nẹp một khối - rất vững chắc). Luyện tập có thể tiến hành sớm. Mổ thường rất đơn giản : chỉ cần đo chính xác phần xương định cắt, sau đó tiến hành mọi thủ thuật đều ở bên ngoài khớp.

Cần phải chờ cho liền xương, thì chân mới vững nên phải sử dụng nạng. Thời gian tập đi lại và tỳ đè tuỳ thuộc vào đục chỉnh trục ở xương nào (đùi hay chày)  kỹ thuật (mở hay khép), cố định xương kiểu gì, có thể cho phép tỳ ngay, hay cũng có thể phải chậm lại 2 đến 3 tháng.

Can thiệp này cho phép giảm đau ngay và ngừng quá trình làm nặng thêm của thoái hoá khớp . Nó không làm cho sụn bớt hỏng , không làm giảm được thoái hoá. Sụn khớp vẫn có nguy cơ bị phá huỷ và vẫn còn có khả năng làm cho khớp thoái hoá tiếp sau này. Nhưng thời gian để thoái hoá toàn bộ sẽ kéo dài hơn, như thế thay khớp sẽ chờ được đến thời điểm tốt nhất.

Chỉ định đục xương sửa trục
Chỉ định đục xương chỉnh trục cần có sự tham gia của nhiều yếu tố :
  • Mức độ đau trầm trọng và biến dạng của chi dưới
  • Tuổi: đục xương chỉnh trục hay làm với người trẻ tuổi
  • Trên phim chụp điện có những yếu tố đảm bảo cho thành công của phẫu thuật

Thay khớp gối (Prothèse du genou)

Sau một thời gian dài với sự phát triển  đáng kinh ngạc, ngày nay thay khớp gối cho những người cao tuổi đã đạt được kết quả rất tốt, ngang với việc thay khớp háng. Khớp gối nhân tạo không phải là bản lề trong khớp. Nó chỉ thay thế các  phần bị hỏng của sụn khớp  và nó bảo tồn hoàn toàn các cấu trúc giải phẫu khác của gối, đặc biệt là các dây chằng, cũng chính vì thế không chỉ có một loại khớp gối duy nhất mà còn có rất nhiều loại khớp khác nhau phù hợp với từng thương tổn của gối. 


Các hiểu biết về khớp gối nhân tạo 
Khớp gối nhân tạo bao gồm các thành phần khác nhau, chúng liên hệ với nhau trong khớp gối. 

Khớp gối nhân tạo đơn (prothèses unicompartimentales) nó thay thế cho khớp đùi chày trong hoặc ngoài, chỉ thay thế phần sụn đã hỏng, không can thiệp tới dây chằng, không can thiệp vào khoang khớp còn tốt. Nó chỉ định cho những thương tổn thoái hoá, hay hoại tử giới hạn trong một khoang khớp. Sử dụng trên 20 năm nay, kết quả cho thấy rất ít trường hợp phải thay lại.

Khớp gối nhân tạo toàn bộ trượt (prothèses totales à glissement), điểm đặc biệt của nó là có một đĩa mâm chày di động nên tôn trọng sinh lý của khớp gối và hệ thống  dây chằng gối, vì thay thế hoàn toàn phần sụn khớp, nên chỉ định cho trường hợp thoái hoá toàn bộ trên diện rộng, cũng như trong các trường hợp viêm khớp dạng thấp.

Còn có loại khớp nhân tạo có bản lề (prothèses charnières), nó thay thế hoàn toàn cho khớp gối. Nhưng rất hiếm sử dụng, nó chỉ dùng trong trường hợp cấu trúc khớp bị phá huỷ nặng nề, phá huỷ toàn bộ hệ thống dây chằng, cũng như dùng để thay lại khớp gối.

Kết quả của thay khớp gối, cơ bản là mất hẳn triệu chứng đau và đi lại được, không chỉ dừng lại ở kết quả đó, ngày nay chúng còn đạt được chất lượng như là khớp háng nhân tạo. Ngay sau khi thay không cần bất động và có thể  đứng và tập đi rất sớm.

Đau đó là một yếu tố chính trong việc chỉ định mổ, đồng thời chỉ định mổ phải do bệnh nhân tự quyết định lựa chọn cho mình có thay khớp nhân tạo hay không.


Biến chứng của khớp gối nhân tạo

Tất cả các can thiệp phẫu thuật gối đều cần tính tới nguy cơ biến chứng. Thậm chí cả những  biến chứng không phải là đặc trưng cho loại phẫu thuật này : biến chứng gây mê, biến chứng do tuổi già, và biến chứng do các bệnh phối hợp... Cần phải làm khám nghiệm tổng thể trước mổ để biết và đánh giá các nguy cơ này nhằm hạn chế nhiều nhất khả năng xấu có thể xảy ra.

Bác sĩ chuyên môn chỉ kể ra các biến chứng liên quan tới phẫu thuật này. Nó có thể đến sớm trong quá trình mổ, có thể đến sau một vài ngày sau mổ, cũng có thể muộn hơn nữa một vài tháng hay một vài năm.

Các biến chứng trong phẫu thuật
Nó rất hiếm, ví dụ như thương tổn động mạch ở chi dưới hay thần kinh  với những trường hợp mổ khó. Cũng có thể gẫy xương đùi, xương chày, hay bong chỗ bám của hệ thống gân duỗi (gân bánh chè) hay đứt gân cơ tứ đầu,...

Biến chứng sớm

Nhiễm trùng
Trội hơn cả là nhiễm trùng. Nhiễm trùng là nguy cơ của tất cả các phẫu thuật. Ở gối biến chứng nhiễm trùng càng nặng hơn, nhưng cũng nhấn mạnh rằng biến chứng này rất hiếm gặp. Theo dõi để phát hiện sớm nhiễm trùng, xảy ra sau phẫu thuật vài  tuần đầu, thấy xuất hiện dấu hiệu đau, sốt , gối sưng to, chảy dịch ở vết mổ,... . Cần phải cấy vi khuẩn và làm kháng sinh đồ để điều trị kháng sinh cho phù hợp, không phải chỉ có thế là khỏi bệnh, cần phải theo dõi diễn biến nhiễm trùng, thực tế phải mở lại gối để rửa sạch. Với biện pháp điều trị tích cực như trên thông thường  sẽ khỏi được nhiễm trùng.

Các biến chứng khác :
  • Tắc mạch : Là hình thành các cục máu đông ở trong tĩnh mạch, nó có thể giải quyết được bằng điều trị chống đông dự phòng. Biến chứng này có thể đưa lại những nguy cơ rất nặng: nhồi máu phổi.
  • Máu tụ trong gối: điều trị chống đông là cần thiết tuy nhiên đó lại là điều kiện thuận lợi cho biến chứng máu tụ trong gối. Cần phải mổ lại để lấy khối máu tụ này.
  • Hội chứng thiểu dưỡng thần kinh cơ (syndrome neuro-algo-dystrophique) rất hiếm xảy ra: nó có đặc tính làm cứng gối sớm, phối hợp với đau và phù nề. Cần phải điều trị bằng thuốc tương đối lâu .
  • Cứng gối: Cứng khớp gối có thể thấy sau những can thiệp vào khớp gối, đặc biệt sau khi thay khớp, nguyên nhân là do dính trong khớp, là sự tổ hợp của nhiều yếu tố: đau sau phẫu thuật gây khó khăn trong luyện tập, phản viêm mạnh ở khớp gối, sau biến chứng máu tụ trong khớp,...Vận động cưỡng bức khớp gối " bẻ khớp" dưới gây mê toàn thân cải thiện đáng kể biên độ vận động cũng như giảm đau cho bệnh nhân. Đây là một thao tác nhỏ, chỉ cần gấp chân của bệnh nhân đủ để làm đứt các thành phần dính ở trong khớp. Chỉ định này nên làm sớm sau phẫu thuật, không nên để quá lâu, các dây chằng dính chặt lại sẽ rất khó thực hiện.

Biến chứng thì hai (thứ phát)
Biểu hiện bằng tình trạng  nhiễm trùng gối muộn , tình trạng cứng khớp hay các biến chứng cơ học của khớp nhân tạo.

Nhiễm trùng muộn hiếm gặp, nguyên nhân là do sự di nhập của các vi khuẩn từ nơi khác tới ( Abces răng, nhiễm trùng tiết niệu, nhiễm khuẩn ruột,...) Điều này có nghĩa là cần phải điều trị nghiêm túc với tất cả các nhiễm trùng ở trên người bệnh có mang khớp nhân tạo. Khi khám bệnh với bác sĩ nội khoa cần trình bày rõ là mình đã được thay khớp. Điều trị loại nhiễm khuẩn muộn này thông thường là phải thay lại khớp mới. Trong trường hợp thất bại khi thay lại, chỉ còn cách làm cứng khớp.

Cứng khớp Sau mổ thời gian dài không được phát hiện để "bẻ " khớp dưới gây mê toàn thân, khớp gối trở nên rất cứng, gây hạn chế chức năng nhiều. Khi này cần phải chỉ định mổ để gỡ dính gối (can thiệp này nhằm cắt bỏ các thành phần dính trong gối )

Các biến chứng cơ học gây ra do khớp nhân tạo, đôi khi phải thay lại khớp mới.
  • Không vững có thể xảy ra ở khớp gối với mâm chày di động, hệ thống dây chằng bị trùng trong khi chất lượng còn tốt, biểu hiện: không vững bánh chè có khi bị trật ra  ngoài, không vững giữa xương đùi và xương chày.
  • Mòn khớp. Đây là một nguy cơ không mong muốn của tất cả  các loại khớp nhân tạo. Sử dụng khớp với  mâm chày di động sẽ giảm được nguy cơ này. Nguy cơ của biến chứng này làm giảm tuổi thọ của khớp rất nhiều.
  • Lỏng xi măng xuất hiện các vận động bất thường giữa khớp nhân tạo và xương ở vị trí tiếp xúc nhau, đó cũng là nguyên nhân gây đau. Biến chứng này chỉ xảy ra với các khớp có dùng xi măng, còn với khớp không dùng xi măng thì xương sẽ cắn chặt vào bề mặt bên ngoài của khớp.
  • Gẫy xương chấn thương có thể là nguyên nhân của gẫy xương đùi, xương chày, hay bánh chè, tiếp xúc trực tiếp với khớp thay thế, cũng có khi vỡ cả khớp nhân tạo. Đôi khi  không do chấn thương , khớp vẫn tự vỡ do "mệt mỏi" của kim loại (fractures « de fatigue»).
Liệt kê các biến chứng trên đây giúp ta khỏi  quên các biến chứng của phẫu thuật thay khớp gối (cho dù ít gặp)


Chỉ định : Khi nào thì phải mổ thay khớp?

Câu trả lời đơn giản là : Khi nào quá đau !

Khi điều trị bằng thuốc không hiệu quả phải dừng lại thì khi đó phẫu thuật mới được đưa ra. Thông thường, khi đau xuất hiện thì phải điều trị thuốc. Mục đích của phương pháp là giảm đau, mà không có bất cứ một tác động nào trên sụn khớp. Nên không có bất cứ một tác động lên sự thoái hoá khớp cũng như không cản trở được tiến trình của thoái hoá khớp.

Đau là một cái cớ chính để chỉ định mổ. Chỉ định mổ mang tính cá nhân, không phải là bác sĩ nội khoa, không phải là phẫu thuật viên, cũng không phải gia đình hay người xung quanh mà chính là do dấu hiệu đau của bệnh nhân quyết định, có nghĩa là cần có sự trao đổi giữa người bệnh và bác sĩ, người thầy thuốc nói cho bệnh nhân những thông tin cần thiết: như tiến bộ của thay khớp, nhưng lợi ích sau khi thay, đồng thời cũng cần chỉ rõ những điểm bất lợi , nhưng nguy cơ biến chứng thậm chí rất nặng với tuổi già, và với bệnh mãn tính của bệnh nhân. Để rồi bệnh nhân cân nhắc và chỉ định mổ sẽ do chính bệnh nhân quyết định.

Cần phải xem lại chỉ định của mình, không được có chỉ định thay khớp "dự phòng", ví dụ: không được chỉ định  mổ vì sợ phải mổ khi bệnh nhân già hơn. Càng không đựơc chỉ định mổ khi thoái hoá còn chưa quá nặng, về chức năng nó vẫn còn đảm đương được. Nhắc lại là khớp nhân tạo chỉ thay thế cho sụn khớp đã hỏng nặng. Như thế can thiệp có thể phải chờ thêm một thời gian để có điều kiện tốt hơn, và sụn khớp hỏng nặng hơn. Tuy nhiên, không được để khớp gối đến tình trạng cực nặng, biến dạng quá nhiều, như thế rất khó khăn cho phẫu thuật: nếu chưa có các nguy cơ này thì cần phải theo dõi trên phim (radio) thường xuyên để phát hiện và chỉ định mổ cho kịp thời.

Tuổi là một yếu tố quan trọng trong chỉ định mổ. Chúng ta đã biết  tuổi thọ của khớp nhân tạo không phải là vĩnh viễn do nguy cơ mòn khớp cũng như lỏng xi măng. Thay khớp cho những người trẻ tuổi có nhiều nguy cơ hỏng khớp nhân tạo sớm hoạt động nhiều và thời gian sống còn quá dài. Chính lý do này các phẫu thuật viên muốn tránh không phải thay lại khớp gối lần hai nên khuyên không nên mổ thay khớp ở người trẻ.

Người ta vẫn muốn thay khớp tại thời điểm muộn nhất nếu có thể, thực tế là không thể tìm ra được một chỉ số về tuổi, về mức độ đau, những biến dạng khớp, hay các bệnh khác về khớp để chỉ định mổ. Với người trẻ đục xương sửa trục vẫn là chỉ định tốt hơn so với thay khớp gối.

Với sự hiểu biết về khớp nhân tạo, có thể đưa ra chỉ định ngoại khoa tuỳ thuộc tuổi, vào mức độ đau và sự cản trở chức năng trong cuộc sống hàng ngày. Không có một lý do nào để chỉ định mổ thay khớp gối sớm khi chưa cần thiết. Những kết quả thu thập được trong năm 2001,  nó cũng không hoàn toàn được tốt, đặc biệt với người già, vậy không nên quá lợi dụng thay khớp gối khi mức độ đau và biến dạng chưa quá trầm trọng.


Các lời khuyên trong điều trị thoái hóa và đau khớp gối

Mặc dù bất cứ khớp nào trong cơ thể đều có nguy cơ thoái hóa khớp, nhưng khớp gối lại thường bị nhất. Đau khớp gối có thể ảnh hưởng đến mọi hoạt động thường ngày như đi bộ hoặc đi lên cầu thang, và điều quan trọng là tìm ra cách để xử trí nó. Các phác đồ điều trị hiện tại khuyến nghị cách tốt nhất để điều trị cơn đau khớp gối là phối hợp nhiều phương pháp tự điều trị.

1. Tập thể dục nhiều hơn
Có vẻ như hơi ngược đời khi khuyên bệnh nhân tập thể dục trong khi họ đang bị đau khớp gối, nhưng các chuyên gia khuyến nghị việc tập thể dục như là bước đầu tiên trong điều trị cơn đau. Có 3 loại thể dục có thể giúp bệnh nhân:
  • Thể dục giúp tăng cường sức mạnh: các bài tập thể dục tăng cường sức mạnh có thể giúp cho các cơ xung quanh khớp gối trở nên mạnh hơn, có tác dụng chống đỡ tốt và bảo vệ khớp gối.
  • Sự linh hoạt: Loại thể dục này giúp tăng cường tính cử động của khớp. Đây là những tài tập thể dục đặc hiệu có thể giúp tăng cường sự linh hoạt, và cũng nên thử các loại hình thể dục như là thái cực quyền hoặc yoga để giúp cơ thể trở nên dẻo dai hơn.
  • Aerobic. Để giúp tăng cường sức khỏe tổng quát, nên thử các môn thể dục aerobic. Nhưng cẩn thận không được tập các môn thể dục gây tổn thương nhiều hơn cho khớp gối như chạy chẳng hạn. Thay vào đó, thử các môn thể dục nhẹ nhàng hơn như đi bộ hoặc đi bơi. Thậm chí lúc đi bộ cũng nên tránh đi lên hoặc xuống các đồi dốc vì điều này làm tăng thêm các áp lực lên khớp gối, chỉ nên đi bộ trên các khu vực bằng phẳng. Trước khi bắt đầu bất cứ bài tập thể dục nào, hãy tư vấn trước với bác sĩ, vì họ có thể giúp bạn thiết lập một chương trình tập thể dục phù hợp cho chính bạn.
2. Làm từng bước
Một điều quan trọng mà bạn cần nhận ra đó là bạn phải học cách làm từng bước các công việc hàng ngày, vì nếu không bạn sẽ có nguy cơ làm quá sức một việc gì đó và gây ra những tổn thương nhiều hơn cho khớp gối của bạn. Sẽ cần một thời gian và luyện tập để lấy lại cân bằng giữa việc làm việc và để cho khớp bạn nghỉ ngơi đều đặn.

3. Giữ vóc dáng
Nếu thừa cân sẽ tạo thêm áp lực lên khớp gối. Các nghiên cứu cho thấy tình trạng thừa cân sẽ làm tăng nguy cơ thoái hóa khớp gối. Cụ thể hơn, cứ tăng kí lô trọng lượng cơ thể, bạn sẽ tăng nguy cơ thoái hóa khớp gối lên 40%. Điều ngược lại cũng đúng: cứ giảm kí lô trọng lượng cơ thể, bạn sẽ giảm được 40% nguy cơ thoái hóa khớp gối. Các phác đồ điều trị đều khuyến cáo việc giảm cân như là một phương pháp chính trong điều trị đau khớp gối.

4. Kiểm soát cơn đau
Bên cạnh tập thể dục và giảm cân, việc sử dụng các thuốc giảm đau cũng có thể giúp kiểm soát cơn đau. Các phác đồ điều trị trên thế giới đều khuyên dùng paracetamol như là thuốc giảm đau đầu tay trong điều trị đau do thoái hóa khớp. Paracetamol có thể sử dụng liều tối đa lên tới 4g/ngày để giúp kiểm soát cơn đau.
Các phương pháp điều trị khác bao gồm việc sử dụng thuốc giảm đau nhóm NSAID đường uống và đường ngoài da bôi trực tiếp lên vùng khớp gối bị đau.
Chỉ sử dụng thuốc giảm đau như hướng dẫn và theo đúng chỉ định ghi trên tờ hướng dẫn vào mọi lúc.

5. Mang giày phù hợp
Việc lựa chọn một đôi giày phù hợp có thể tạo nên sự khác biệt thật sự. Các chuyên gia khuyên sử dụng các đôi giày và đế lót giày có khả năng chống shock. Chọn những đôi giày đế thấp và có dây buộc và có khả năng chống đỡ gót chân và tránh sử dụng giày cao gót và giày sandal.

6. Thử các liệu pháp nhiệt nóng và lạnh
Đắp túi nóng hoặc cao dán hoặc nước đá vào chỗ đầu gối cũng được khuyến nghị là các biện pháp hỗ trợ để giảm đau khớp gối bên cạnh các phương pháp khác.

7. Hỗ trợ đầu gối
Sử dụng nẹp gối được khuyến cáo là một biện pháp bổ sung để hỗ trợ khớp gối. Nó có thể giúp giảm đau, làm cho khớp gối vững chắc hơn, và cũng làm giảm nguy cơ bị "lắc lư" khớp gối.

8. Sử dụng xung điện
Kích thích thần kinh bằng điện qua da (Transcutaneous electrical nerve stimulation (TENS)) cũng có thể được sử dụng. Các máy TENS hoạt động bằng cách truyền những xung điện nhỏ vào các dây thần kinh trên da, giúp chặn đứng các tín hiệu cảm giác đau.




vendredi 17 octobre 2014

SỨC KHOẺ : Táo bón và bệnh trĩ


Trương Thanh Long
Sưu tầm - Biên soạn - Bình Luận


Táo bón lâu ngày là một trong nguyên nhân gây bệnh trĩ. Viêm đại tràng và táo bón lâu ngày là các nguyên nhân chủ yếu gây bệnh trĩ. Ngoài ra, những người làm việc nhiều ở tư thế đứng hoặc ngồi, ăn nhiều chất kích thích, ít chất xơ… cũng có nguy cơ cao mắc bệnh.

Táo bón

Táo bón là trạng thái đi tiêu phân khô cứng, buồn đi mà không đi được, phải rặn mạnh, thời gian đi tiêu lâu hoặc nhiều ngày mới đi tiêu, trong điều kiện ăn uống bình thường, người bệnh có thể dễ dàng nhận ra táo bón qua các biểu hiện như ít đi cầu, đau bụng, đau đầu và đặc biệt là khó nhọc khi đi nhà xí. Bệnh táo bón trên lâm sàng thấy rất nhiều, nhất là ở người già và người béo. Táo bón lâu ngày là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến bệnh trĩ.



Ở Việt Nam, những năm gần đây, tình trạng táo bón trong giới thanh niên, đặc biệt là những người làm việc nơi công sở đang ngày càng tăng mạnh, số người bị táo bón ngày càng lớn. Nguyên nhân chủ yếu do áp lực công việc nặng nề, tâm lý căng thẳng quá mức, cộng thêm ít vận động, thể dục thể thao và phải ngồi lâu trong văn phòng.


Triệu chứng

Triệu chứng chung của táo bón là khi quá 3 ngày chưa đại tiện hoặc đại tiện dưới 3 lần trong một tuần và có thể có từng cơn đau quặn bụng, phân rắn màu đen và hay von cục (dân dã gọi là cứt sắt), muốn đại tiện được thì phải rặn mạnh đến nỗi có lúc bật cả máu tươi, ở một số người có biểu hiện là khi đại tiện rồi mà vẫn cứ cảm giác vẫn còn phân trong ruột. Tuy chỉ là triệu chứng nhỏ không ảnh hưởng nhiều đến chất lượng cuộc sống nhưng táo bón gây nhiều phiền toái cho bệnh nhân.


Nguyên nhân

Nguyên nhân có thể là triệu chứng khởi đầu của một bệnh lý thực thể nào đó tại đường tiêu hoá như bệnh của đại trường các bệnh toàn thân suy giáp trạng, tăng canxi máu, co thắt, nhu động giảm, phình đại trường... Bệnh ngoài đường ruột như ung thư gây chèn ép... hoặc bệnh toàn thân như chức năng tuyến giáp giảm, nhiễm độc chì, suy nhược cơ thể, một số bệnh lý thần kinh như bệnh Parkinson, thần kinh tâm thần bị ức chế như lo nghĩ, tức giận, buồn phiền… tập quán sinh hoạt thiếu điều độ... Hoặc có thể do rối loạn chức năng vận chuyển của ruột.


Do thói quen ăn uống không khoa học, chế độ ăn nhiều chất  đạm (thịt, cá nước ngọt, sữa, trứng...), ít chất xơ (trái cây, rau xanh và ngũ cốc), ít vận động, ăn uống không hợp lý (thiếu chất xơ, uống ít nước làm cho phân cứng, khó thải ra ngoài), stress, do uống thuốc tây ( thuốc ngủ, thuốc hạ huyết áp, thuốc chống trầm cảm, chống dị ứng, thuốc chữa dạ dày,…)

Lười đi cầu, nén hoặc nhịn việc đi cầu, do thói quen đi đại tiện không đều, bị mất ngủ, căng thẳng thần kinh, do gặp phải những vấn đề ở ruột, hoặc hút thuốc lá, uống quá nhiều trà và cà phê.

Đối với trẻ em, chứng táo bón ở trẻ trong độ tuổi đi học thường do chế độ ăn không đủ nước và chất xơ. Những trẻ ăn chế độ ăn đặc biệt với thức ăn nhanh – giàu chất béo (thịt rán, sữa trứng khuấy sẵn) và đường (kẹo, nước ngọt nhiều đường) có thể bị táo bón thường xuyên hơn.


Điều trị

Táo bón cần quyết tâm điều trị để tránh gây là phiền phức trong cuộc sống, đặc biệt chú trọng đến chế độ ăn uống và lối sống khoa học, thường xuyên vận động, tập thể dục. Đối với trẻ bị táo bón nên điều trị sớm, tránh gây biến chứng sau này. Điều trị táo bón trẻ em là một quá trình lâu dài, toàn diện, đòi hỏi sự kiên nhẫn của cha mẹ, sự phối hợp của gia đình với bác sĩ nhi khoa và bác sĩ dinh dưỡng.

Chế độ ăn uống

  • Nên ăn nhiều các thức ăn chứa nhiều chất xơ (xenlulose), như các loại rau và hoa quả tươi, các loại măng... Chất xơ không hòa tan (có trong rau cải, trái cây…) làm phân xốp, giảm rủi ro phát triển bệnh táo bón. Bổ sung nhiều rau, củ quả để tăng cường chất xơ do chất xơ trong thực phẩm làm khối lượng phân tăng lên đáng kể sẽ kích thích vận động đường ruột, lại có thể bảo lưu thủy phần, tránh phân quá khô.


4 loại rau củ chữa táo bón rất hiệu quả dưới đây:

  1. Củ cải
    Củ cải chia thành củ cải trắng, củ cải đỏ… có thể ăn sống hoặc chế biến thành món ăn. Củ cải tính ngọt, mát, vị cay, có công dụng giải độc, hoá đờm giải nhiệt… Lượng vitamin C trong củ cải gấp 10 lần lê, ngoài ra còn có tác dụng thông tiện, chống ung thư, chống vi khuẩn gây bệnh, ngăn ngừa sỏi mật, làm giảm cholesterol, giúp ngăn ngừa bệnh cao huyết áp. Mỗi ngày có thể ăn khoảng 250g để thông tiện.
  2. Cải thảo
    Cải thảo tính hàn, vị ngọt, có công dụng giải độc trừ nhiệt, thông tiện. Người miệng khô, táo bón, nước tiểu vàng đều có thể ăn cải thảo. Trong cải thảo giàu chất xơ, hàm lượng vitamin A, B, C…phong phú.
  3.  Bầu
    Quả bầu chứa 94% trở lên là nước, là loại quả nhiệt lượng thấp, giàu vitamin A, hàm lượng kali, magiê cao, hàm lượng chất xơ phong phú, cũng có công dụng thông tiện hiệu quả.
  4.  Giá
    Chủ yếu chỉ các loại giá đỗ xanh, giá đậu tương với hàm lượng dinh dưỡng cao, giàu chất xơ, vitamin C, nhiệt lượng và chất béo thấp có tác dụng thông tiện lợi tiểu. Ăn giá đỗ thường xuyên còn có thể trị đờm, tăng cường chức năng cho não bộ.
Ngoài ra, để trị chứng táo bón cần điều chỉnh chế độ ăn. Nên ăn nhiều các loại đậu và khoai có chứa nhiều chất xơ; ăn các loại hoa quả tươi như chuối tiêu, táo, lê, dâu tây…. Các thực phẩm cũng có công dụng thông tiện khác như ngân nhĩ, mật ong, hồ đào, rong biển….


  • Nên ăn nho khô là loại thực phẩm chứa nhiều chất xơ nên là món ăn công hiệu cho người bị táo bón. Nho khô có thể chữa táo bón cho trẻ em bằng phương pháp ép lấy nước cốt và cho trẻ uống tốt nhất vào buổi sáng để đi tiêu dễ dàng.

Nếu xét về giá trị dinh dưỡng thì nho khô là món ăn hữu ích cho sức khỏe vì rất ít chất béo nhưng lại sinh nhiều năng lượng, dễ bảo quản, nhờ đó là món ăn bỏ túi cho người phải lao tâm lao lực. Hơn thế nữa, nho khô là món ăn vặt như thuốc cho người bị cao huyết áp, nhờ tác dụng vừa lợi tiểu vừa bổ sung khoáng tố kalium.

Kết quả một công trình nghiên cứu ở Mỹ cho thấy huyết áp của người hâm mộ nho khô ổn định hơn nhóm không khoái món này. Một số nhà điều trị thậm chí khuyến khích người từ độ tuổi 40 trở lên nên thường ăn nho khô để cầm chân huyết áp.


Nho khô chứa nhiều chất xơ nên là món ăn bầu bạn của người khổ vì táo bón và bệnh trĩ. Cũng nhờ tác dụng kéo chất béo qua đường ruột nên nho khô gián tiếp hạ cholesterol.

Nhiều thầy thuốc vì thế đã không ngần ngại xếp nho khô vào nhóm thực phẩm thích hợp cho người bị bệnh mạch vành. Theo kết quả một công trình nghiên cứu ở Mỹ, sau một tháng áp dụng, lượng LDL trong máu giảm đáng kể trên số bệnh nhân có 80 - 100g nho khô mỗi ngày trong khẩu phần.

Nho khô còn là nguồn giàu chất sắt. Người thiếu máu, đối tượng vừa qua cơn chấn thương xuất huyết, phụ nữ  mang thai, thiếu nữ hay bị rong kinh... nên chọn nho khô để bổ sung chất sắt cần thiết cho cấu trúc lành mạnh của huyết cầu thay vì trông cậy vào thịt, gan rồi khó tránh trục trặc với mỡ máu.


  • Nên uống đủ nước uống 2 lít/ngày, giúp cho làm mềm phân.


  • Ăn một số loại thức ăn có tác dụng nhuận tràng như mật ong, vừng, bơ, sữa bò...

  • Khi đun nấu món ăn, có thể cho tăng một chút dầu ăn, như dầu đậu, dầu hạt cải, dầu vừng, dầu lạc...
  • Ăn một số thức ăn chứa vitamin nhóm B một cách thích hợp, như các loại đậu, lương thực thô, khoai lang, khoai tây, đu đủ..., để thúc đẩy nhu động ruột. Một số loại hoa quả khác như củ cải, cải thảo, bầu và giá đỗ cũng giúp trị táo bón. Ngoài ra quả mơ cũng giúp trị táo bón.
  • Kiêng các thức ăn loại kích thích như rượu mạnh, trà đặc, cà phê, hẹ, tỏi, ớt, ít ăn các thức ăn tanh mặn vị đậm.
  • Uống một cốc sữa ấm trước khi đi ngủ. Điều này giúp cho cơ thể sẽ dễ dàng bài tiết ra những chất cặn bã để tiết ra bên ngoài vào sáng hôm sau. Trong trường hợp bị táo bón nặng, hãy hoà thêm 2 thìa cà phê thầu dầu vào trong cốc sữa.
  • Uống 1 lít nước ấm và đi bộ khoảng vài phút ngay lập tức sau khi thức dậy vào buổi sáng. Mỗi ngày vào buổi sáng sớm khi tỉnh dậy, uống một cốc nước ấm lúc bụng đói.
  • Uống nước chanh pha lẫn với nước ấm từ 2 - 3 lần/ngày. Ngoài ra nên ăn những loại thực phẩm dễ tiêu hoá.
  • Ăn chuối tiêu một quả mỗi ngày ăn một lần.

  • Chỉ ăn khi đói, không nên ăn thành nhiều bữa và mỗi bữa ăn nên cách nhau 4 tiếng. Không nên ăn quá nhiều loại thức ăn trong một bữa ăn.
  • Nên hạn chế và tránh ăn những đồ ăn khô như đậu tương, lạc...

Chế độ sinh hoạt
  • Luyện tập đều đặn. Việc luyện tập chính là phương thuốc hữu hiệu giúp phòng ngừa và điều trị bệnh táo bón.
  • Ngủ đủ giấc. Thiếu ngủ cũng chính là một trong số những thủ phạm gây nên căn bệnh táo bón. Chính vì thế nếu không muốn bị chứng táo bón hoành hành mỗi ngày cần ngủ đủ giấc trong vòng khoảng 8 tiếng/ngày.
  • Cần chú ý đi đại tiện kịp thời, không nên nhịn lâu để đề phòng táo bón.

Dùng thuốc

Các thuốc điều trị táo bón được chia ra các loại sau:
  • Thuốc trị táo bón tạo khối (igol, metamucil),
  • Thuốc trị táo bón thẩm thấu (sorbitol, forlax, lactitol): chứa các muối vô cơ, đường. Khi uống vào, thuốc giữ nước trong lòng ruột giúp thải phân ra ngoài dễ dàng hơn.
  • Các thuốc làm mềm phân (docusat) giúp nước thấm vào khối phân, làm phân mềm và dễ di chuyển hơn
  • Các thuốc bôi trơn (norgalax, microlax) dùng bơm hậu môn.
  • Thuốc trị táo bón kích thích (bisacodyl, cascara), tác động trực tiếp lên thần kinh chức năng vận động bài tiết của ruột, gây co bóp các cơ thành ruột tạo nhu động ruột đẩy phân ra ngoài.
Tuy nhiên, không nên sử dụng bất kỳ một loại thuốc chữa táo bón nào kéo dài quá 8 - 10 ngày, các thuốc trên có nhiều tác dụng phụ, dùng lâu có thể gây biến chứng cho đường ruột, có hại cho gan, thận và đặc biệt nó không giải quyết được gốc rễ của bệnh.

Hiện nay có thể kết hợp phương pháp ăn uống và sử dụng các sản phẩm hỗ trợ để điều trị táo bón, đặc biệt cho bệnh nhân mắc táo bón mạn tính (mắc đi mắc lại nhiều lần): Người bệnh vẫn cần phải có chế độ ăn uống đảm bảo đủ nước và đủ chất xơ, tập luyện vận động hàng ngày. Ngoài ra, kết hợp sản phẩm hỗ trợ giúp cải thiện hệ vi sinh vật có lợi trong đường ruột, kích thích miễn dịch hệ tiêu hóa, các yếu tố khác nhằm ổn định hệ tiêu hóa, bên cạnh việc bổ sung các chất xơ tự nhiên - inulin. Đảm bảo các yếu tố trên thì hạn chế được khả năng mắc táo bón trở lại.


Bệnh Trĩ

Bệnh Trĩ, hay còn gọi là bệnh lòi dom theo dân gian, là bệnh được tạo thành do dãn quá mức các đám rối tĩnh mạch trĩ (hay sự phình tĩnh mạch) ở mô xung quanh hậu môn. Có hai loại trĩ là trĩ nội và trĩ ngoại. 
  • Trĩ nội chịu lực nén bên trong nên có chiều hướng sung huyết, chảy máu và đôi khi bị sa. 
  • Trĩ ngoại có thể có huyết khối phát triển rất đau. 
Là bệnh rất phổ biến, đứng hàng đầu trong các bệnh lý vùng hậu môn đến nhập viện. Bệnh nhân mắc bệnh trĩ thường đi khám và điều trị rất muộn sau nhiều năm, vì bệnh tuy có ảnh hưởng tới cuộc sống nhưng không nặng nề nên bệnh nhân thường bỏ qua và vì bệnh ở vùng kín đáo nên bệnh nhân thường ngại ngùng nhất là phụ nữ. Chỉ đến khi chảy máu nhiều hoặc bị sa búi trĩ thì bệnh đã ở cấp độ nặng, không thể dùng thuốc mà phải chỉ định phẫu thuật.


Dấu hiệu của bệnh

Bệnh trĩ là bệnh do sự căng dãn quá mức tại các tĩnh mạch ở trực tràng – hậu môn gây viêm sưng hoặc xuất huyết. Bệnh trĩ thường xảy ra ở người bị táo bón kinh niên, công việc ít đi lại, ở phụ nữ mang thai. Người mắc bệnh trĩ mới đầu chỉ có cảm giác ngứa rát đôi chút, lâu dần sẽ đi ngoài ra máu và đau rát nhiều hơn. Bệnh trĩ ngoại thường sớm được phát hiện và điều trị nhanh hơn, do người bệnh có thể sờ thấy khi trĩ ở mức độ nhẹ. Với bệnh trĩ nội, thường người bệnh chỉ nhận biết được khi bệnh đã ở giai đoạn nặng, búi trĩ sa hẳn bên ngoài hậu môn hoặc bị tổn thương dẫn đến xuất huyết nặng, viêm sưng, nhiễm trùng búi trĩ.


Phân loại

Bệnh trĩ được chia làm 2 loại: Trĩ nội và trĩ ngoại. Bệnh trĩ là sự phồng lớn của một hay nhiều tĩnh mạch thuộc hệ thống tĩnh mạch trĩ trên hoặc tĩnh mạch trĩ dưới hay cả hai gây nên trĩ nội, trĩ ngoại hay trĩ hỗn hợp. Bệnh có thể gặp ở mọi lứa tuổi, kể cả trẻ em. Thực ra, trĩ nội và trĩ ngoại chỉ khác nhau về vị trí phát sinh búi trĩ. Với việc phân biệt hai loại trĩ này sẽ giúp ích cho quá trình thăm khám và điều trị căn bệnh này.


  • Nếu các xoang tĩnh mạch trĩ trên (trực tràng trên) phồng to, trĩ được hình thành ở trên đường lược được gọi là trĩ nội.
  • Nếu các xoang tĩnh mạch trĩ dưới (trực tràng dưới) phồng to, trĩ được hình thành ở dưới đường lược được gọi là trĩ ngoại.
  • Trĩ hỗn hợp tức là trên cùng một bệnh nhân xuất hiện cả trĩ nội và trĩ ngoại. Thông thường, khi diễn tiến lâu ngày, phần trĩ nội và phần trĩ ngoại sẽ liên kết với nhau, tạo thành trĩ hỗn hợp. Búi trĩ nội, khi đã sa tới độ 3, thường hiện diện dưới hình thái trĩ hỗn hợp.

Cấp độ bệnh
  • Bệnh trĩ ở cấp độ 1 & 2, người bệnh thường có các triệu chứng sau: Đau và chảy máu khi đại tiện, ngứa hậu môn, tiết dịch gây viêm da, ngứa và ướt viêm quanh hậu môn.
  • Bệnh trĩ ở cấp độ 3 & 4, búi trĩ bên trong (trĩ nội) bị sa quá mức gây nghẹt hay tắc mạch hay gây nứt, áp xe hậu môn, hoặc búi trĩ bên ngoài (trĩ ngoại) bị tổn thương nhiễm trùng gây lở loét, xuất huyết trầm trọng hay tạo thành những cục máu đông nằm trong búi trĩ, có nguy cơ gây biến chứng nguy hiểm và sinh ra các bệnh khác. Người bệnh có thể vừa mắc bệnh trĩ nội vừa mắc bệnh trĩ ngoại. Nếu không sớm điều trị, sẽ làm người bệnh ngày càng có cảm giác vướng víu, khó chịu, chảy máu và đau đớn nhiều hơn mỗi khi đại tiện.
Bệnh trĩ ở cấp độ nhẹ có thể tự chữa trị, nếu để chuyển sang giai đoạn nặng thì việc điều trị bệnh trĩ sẽ trở nên rất khó khăn, phải có sự can thiệp của phẫu thuật.


Liệu pháp

Liệu pháp đầu tiên chữa trĩ nội là dùng chế độ dinh dưỡng có nhiều xơ. Khi đại tiện tránh không được rặn, trĩ nặng và đã bị sa thường phải giải quyết bằng phẫu thuật. Trĩ ngoại có huyết khối phải dùng phẫu thuật.

Dùng thuốc

Có rất nhiều thứ thuốc bôi ngoài để giảm các triệu chứng, các thuốc bôi ngoài thường dùng các chất bôi trơn, các chất làm mềm và làm dịu da, có thể kết hợp trong đó một thuốc tê để giảm đau. Khi không có nhiễm khuẩn, có thể kết hợp với corticosteroid, các chất kết hợp này chỉ có tác dụng ngắn hạn. Một số chất khác hay được kết hợp do tính chất làm dịu như: một số muối bismuth, kẽm oxid, resorcinol …

Các bioflavonoid cũng được kết hợp trong các thuốc bôi ngoài, ở một số nước các chất này còn được dùng theo đường uống, và cùng với một số chất khác như calci dobesilat, tribenosid được dùng do tính chất bảo vệ thành tĩnh mạch.

Y học cổ truyền
Từ ngàn đời nay, đông y đã có nhiều phương pháp giúp điều trị trĩ và táo bón hiệu quả:
  • Ngư tinh thảo (rau diếp cá, rau dấp cá) có thành phần chính là Quercetin, một flavonoid có tác dụng bảo vệ thành mạch rất mạnh. Tinh dầu Diếp cá có chứa decanonyl acetaldehyde có tác dụng kháng sinh mạnh, tiêu diệt cả trực khuẩn mủ xanh, do đó chống viêm nhiễm rất hiệu quả. Cao diếp cá có tác dụng nhuận tràng, chống táo bón rất tốt.
  • Đương quy là một vị thuốc quý, có tác dụng bổ máu, điều kinh, chống thiếu máu, suy nhược cơ thể. Đương quy có tác dụng hoạt huyết giảm đau, giúp chữa viêm loét, mụn nhọt. Ngoài ra, Đương quy còn có tác dụng nhuận tràng thông đại tiện, chống táo bón.
  • Rutin là một flavonoid aglycon có nhiều trong hoa Hòe. Rutin có hoạt tính vitamin P, có tác dụng làm bền thành mạch, làm giảm tính "dòn" và tính thấm của mao mạch, làm tăng sự bền vững của hồng cầu, giảm trương lực cơ trơn, chống co thắt. Ngoài ra, rutin còn có tác dụng kích thích sự bài tiết của niêm mạc ruột và do vậy giúp nhuận tràng. Rutin được dùng để phòng ngừa những biến chứng của bệnh xơ vữa động mạch, điều trị suy tĩnh mạch, giãn tĩnh mạch, trĩ, các trường hợp xuất huyết như chảy máu cam, ho ra máu, tử cung xuất huyết, phân có máu….
  • Curcumin là một hoạt chất chính của củ nghệ (Curcuma domestica), có hoạt tính chống viêm do khả năng quét những gốc oxy có liên quan đến quá trình viêm. Curcumin còn có tác dụng ức chế khối u, thông mật, lợi tiêu hóa. Bổ sung Curcumin giúp chống viêm và làm mau lành các vết tổn thương của trĩ.
  • Magiê có tác dụng nhuận tràng, giúp hạn chế chứng táo bón vốn là căn nguyên gây bệnh trĩ. Ngoài ra, Magiê còn là một khoáng chất rất cần thiết cho cơ thể.
Người bệnh có thể chọn thuốc trị bệnh trĩ từ các bài thuốc đông dược đã được bào chế thành các dạng thuốc viên rất tiện lợi, thích hợp để tự điều trị bệnh trĩ khi bệnh ở mức nhẹ, có hiệu quả điều trị cao, an toàn và không lo tác dụng phụ. Ngoài ra, cần tránh các chất kích thích như cà phê, rượu, trà, ớt, tiêu. Ăn đủ chất xơ, uống nhiều nước và thường xuyên tập thể dục, thể thao như bơi lội, đi bộ,…

Đông y chữa từ nguyên nhân gây bệnh đây là một trong những ưu điểm của Đông y so với Tây y (y học hiện đại)


Táo bón lâu ngày là một trong nguyên nhân gây bệnh trĩ

Viêm đại tràng và táo bón lâu ngày là các nguyên nhân chủ yếu gây bệnh trĩ. Ngoài ra, những người làm việc nhiều ở tư thế đứng hoặc ngồi, ăn nhiều chất kích thích, ít chất xơ… cũng có nguy cơ cao mắc bệnh.
Bệnh trĩ là sự phồng lớn của một hay nhiều tĩnh mạch trĩ trên hoặc dưới, thậm chí cả hai (gây trĩ nội, trĩ ngoại hoặc trĩ hỗn hợp). Triệu chứng thường thấy nhất là đại tiện ra máu, thường là màu đỏ tươi, xảy ra ngay sau khi đại tiện. Hiếm khi trĩ gây xuất huyết ồ ạt nhưng lâu ngày nó có thể dẫn đến thiếu máu mạn tính và nặng. Sau một thời gian, trĩ lớn và sa.

Mới đầu, hiện tượng sa xuất hiện lúc đi đại tiện nhưng về sau sẽ liên tục. Bệnh nhân rất đau, nhất là khi ngồi, di chuyển khó khăn. Vùng hậu môn và quanh hậu môn bị sưng phù nhiều, tách rộng ra hai bên sẽ thấy niêm mạc trĩ nội thuyên tắc nằm ở giữa. Hai màu niêm mạc trong và ngoài rất khác nhau.


Tình trạng trĩ nội thuyên tắc có thể tự khỏi. Sau vài ngày, bệnh nhân bớt đau, bớt sưng, trĩ trở vào trong hậu môn. Sau cơn thuyên tắc, trĩ có thể bị xơ hóa, nhỏ lại và bớt chảy máu. Một vài trường hợp bị lở loét bó trĩ hoặc hoại tử từng vùng. Nhiều trường hợp hoại tử tạo ra áp xe vùng hậu môn và vùng chậu.
Khi có các dấu hiệu kể trên, bệnh nhân nên đi khám nhằm loại trừ ung thư đại tràng hay ung thư trực tràng tiềm ẩn. Nếu đã xác định là trĩ, bạn nên dùng khẩu phần nhiều chất sợi, chuối, táo, lê, các loại củ, khoai như khoai lang, khoai từ, bí đỏ… và uống nhiều nước, tránh rặn mạnh khi đại tiện hay khuân vác nặng.
Ngoài ra, người bệnh nên giữ vùng hậu môn cho sạch: rửa bằng nước, không dùng giấy lau khi đi đại tiện; không nên rửa bằng xà phòng vì dễ gây kích thích, ngứa nhiều hơn; ngâm hậu môn với nước ấm ngày 4 lần, mỗi lần 10 phút. Bạn cũng có thể đắp gạc lạnh với số lần và thời gian tương tự. Nếu búi trĩ sa ra ngoài, bạn nên nhét nó nhẹ nhàng vào hậu môn để tránh tình trạng thuyên tắc.
Với tình trạng đau phù và viêm trong các cơn trĩ cấp, người bệnh có thể xử trí bằng cách bôi thuốc mỡ hoặc thuốc đạn có hydrocortisone. Tuy nhiên, bạn không nên dùng quá 2 tuần lễ vì hydrocortisone có thể gây teo niêm mạc hậu môn, dùng lâu dài có thể gây các biến chứng trên tuyến thượng thận và hệ xương khớp. Các trường hợp bị trĩ mãn tính có thể sử dụng thuốc Đông y như bài thuốc Bổ trung ích khí.
Một số phương pháp điều trị trĩ khác như nong hậu môn, thắt búi trĩ bằng dây thun, chích xơ hóa búi trĩ hoặc đốt điện, chích nước nóng…, phẫu thuật cắt trĩ (áp dụng đối với trĩ độ 3 và 4). Trường hợp trĩ ngoại bị thuyên tắc nên mổ ngay lấy cục máu đông. Bệnh nhân sẽ hết đau rất nhanh và phòng được biến chứng do thuyên tắc gây nên.
Để phòng ngừa bệnh trĩ, bạn cần uống nhiều nước (mỗi ngày ít nhất 8-10 ly) để giúp phân mềm và dễ đại tiện; ăn nhiều rau cải, trái cây (giúp phân mềm, khối phân tăng thêm nên bớt phải rặn); vận động để tránh tăng áp lực trong tĩnh mạch, nhất là sau khi ngồi hoặc đứng lâu. Vận động cũng giúp tránh táo bón và giảm trọng lượng nếu bệnh nhân béo phì. Nếu phải ngồi lâu, bệnh nhân không được lót gối mềm dưới mông vì sẽ làm tăng hiện tượng chèn ép các tĩnh mạch.




dimanche 5 octobre 2014

BLOG : Đường (Sugar - Sucre)


Trương Thanh Long
Sưu tầm - Biên soạn - Bình Luận


Có một điều tương đồng ở tất cả mọi người, dù già hay trẻ ai nấy cũng đều thích ngọt cả. Một món ăn có vị ngọt vẫn dể hấp dẫn khẩu vị hơn là một món ăn nhạt nhẽo vô vị. Thèm ngọt là một nhu cầu thiết yếu của cơ thể để củng cố năng lượng. Carbohydrate hay Glucide là những hợp chất bao gồm đường (sugar), bột đường hay tinh bột (starch) và chất xơ (fibre). Những chất này rất cần thiết cho chúng ta để sống. Nhưng ngọt quá đôi khi cũng nguy hiểm!


Đường là một hợp chất ở dạng tinh thể, có thể ăn được. Các loại đường chính là sucrose, lactose và fructose. Vị giác của con người xem vị của nó là ngọt. Đường là một loại thức ăn cơ bản chứa carbohydrate lấy từ đường mía hoặc củ cải đường, nhưng nó cũng có trong trái cây, mật ong... và trong nhiều nguồn khác. Nó là nguyên liệu chính để làm kẹo. Sử dụng quá mức đường có liên quan đến bệnh tiểu đường loại 2, béo phì và sâu răng.


Lịch sử

Bánh đường là dạng truyền thống của đường dùng từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 19, cần dùng một cây kẹp để cắt nhỏ đường. Ban đầu, con người nhai mía để lấy chất ngọt. Người Ấn Độ khám phá ra cách tạo tinh thể đường khoảng vào triều đại Gupta, năm 350.


Cây mía có xuất xứ từ vùng nhiệt đới Nam Á (bao gồm 7 quốc gia: Ấn Độ, Pakistan, Nepal, Bhutan và Bangladesh, Sri Lanka và Maldives.) và Đông Nam Á (bao gồm 11 quốc gia: Brunei, Campuchia, Đông Timor, Indonesia, Lào, Malaysia, Myanma, Philippines, Singapore, Thái Lan và Việt Nam). Những giống khác có thể có xuất sứ từ những nơi khác nhau như S. barberi có xuất xứ ở Ấn Độ, S. edule và S. officinarum đến từ Tân Ghi-nê.

Trong cuộc cách mạng nông nghiệp Hồi giáo, các công ty Ả Rập đã thực hiện kỹ thuật sản xuất đường của Ấn Độ và sau đó điều chỉnh và biến nó thành một ngành công nghiệp lớn. Ả Rập đã thành lập nhà máy đường và đồn điền lớn nhất đầu tiên.

Thập niên 1390 chứng kiến sự phát triển vượt bậc, với sản lượng nước mía thu được tăng gấp đôi. Điều này cho phép phát triển nền kinh tế về đường đến Andalusia và Algarve. Thập niên 1420 chứng kiến sự mở rộng sản xuất đến đảo Canary, Madeira và Açores.

Người Bồ Đào Nha đã đem đường đến Brasil. Hans Staden, xuất bản năm 1555, viết rằng năm 1540, đảo Santa Catarina có 800 xưởng sản xuất đường và bờ biển phía bắc Brazil, Demarara và Surinam có 2000 cái nữa. Ước chừng có 3000 xưởng nhỏ được xây dựng trước năm 1550 ở Tân Thế Giới, tạo ra một nhu cầu lớn chưa từng có về bánh răng gang, đòn bẩy, trục xe và các thiết bị khác. Các nghề chuyên về chế tạo khuôn và luyện gang được phát triển ở châu Âu do sự bùng nổ về sản xuất đường.

Sau năm 1625, người Hà Lan mang mía từ Nam Phi đến các đảo ở vùng Caribê — nơi nó được trồng từ Barbados đến đảo Virgin. Những năm 1625 đến 1750 thấy đường trở nên đáng giá như vàng. Cùng với châu Âu thuộc địa hóa châu Mỹ, Caribê trở thành nguồn đường lớn nhất thế giới. Các đảo này có thể cung cấp mía dùng sức lao động của nô lệ và sản xuất đường với giá rẻ hơn rất nhiều so với đường nhập khẩu từ phương Đông.

Trong suốt thế kỷ 18, đường trở nên cực kỳ phổ biến và thị trường đường đã trải qua nhiều cuộc bùng nổ kinh tế. Do châu Âu đã thiết lập các xưởng sản xuất đường trên các đảo lớn hơn ở Caribê, giá đã giảm, đặc biệt ở Anh. Cuối thế kỷ 18, tất cả mọi thành phần trong xã hội đều trở thành khách hàng bình thường của một mặt hàng từng là xa xỉ phẩm. Đầu tiên, đường ở Anh dùng trong trà, nhưng sau đó kẹo và sôcôla trở nên cực kỳ phổ biến. Các nhà cung cấp thường bán đường trong các bánh đường, và người dùng cần phải dùng kẹp cắt đường để cắt thành miếng.


Bắt đầu từ cuối thế kỷ 18, việc sản xuất đường đã được cơ giới hóa nhiều hơn. Động cơ hơi nước đầu tiên được sử dụng trong các nhà máy đường ở Jamaica vào năm 1768, và không lâu sau, hơi nước đã thay thế việc đốt lửa trực tiếp trong chế tạo đường. Cũng trong thế kỷ này, châu Âu bắt đầu thử nghiệm sản xuất đường từ các cây khác. Andreas Marggraf đã tìm thấy sucrose trong rễ củ cải đường và học trò của ông, Franz Achard, đã xây dựng nhà máy sản xuất đường từ củ cải đường ở Silesia. Tuy nhiên nền công nghiệp đường từ củ cải đường đã bùng nổ trong suốt chiến tranh Napoleon, khi Pháp và phần lục địa châu Âu bị cắt nguồn cung cấp từ Caribê. Ngày nay, 30% lượng đường được sản xuất từ củ cải đường.

Ngày nay, một nhà máy đường cỡ lớn khoảng 1500 tấn mỗi ngày cần một nguồn nhân lực thường xuyên khoảng 150 người để sản xuất liên tục 24 giờ.


Các loại đường

Đường là chất phụ gia đứng hàng đầu ở bất cứ nơi nào trên thế giới. Các loại đường sau đây được coi là thông dụng nhất :

Đường cát (Đường Kính Trắng hay còn gọi là  Đường cát trắng) là loại đường thông dụng nhất hiện nay trên thế giới. Màu trắng, hạt nhuyễn mịn hay hạt to, biến chế từ mía đường. Tên khoa học của đường cát là sucrose hay saccharose. Đường cát qua nhiều giai đoạn tẩy trắng bằng hóa chất cho nên người ta cho rằng ăn đường cát thường xuyên sẽ không tốt cho sức khỏe.

Đường thô: có được trong giai đoạn đầu của việc sản xuất đường. Đường thô màu sẫm và hạt to hơn đường cát trắng.

Đường nâu: Màu từ sẫm tới nhạt. Đây là đường cát (trên 90%) được nhà sản xuất trộn thêm mật đường. Người ta quảng cáo rằng ăn đường nâu thơm ngon và tốt cho sức khỏe hơn ăn đường cát trắng.

Đường bột: Đây là loại đường nhuyễn y như bột. Đôi khi người ta thêm tinh bột bắp để giúp đường khỏi bị đóng cục. Đường bột được dùng để phủ bên ngoài của các loại bánh ngọt.

Đường trái cây (fructose): hiện diện một cách tự nhiên trong các loại trái cây.

Đường trong sữa (lactose): các loại sữa đều có chứa lactose một cách tự nhiên.

Mật đường hay mật gỉ (molasse): Sau khi đường cát được trích lấy, phần nước còn lại được gọi là mật đường. Chất này có màu đen, vị ngọt hơi đắng và có chứa nhiều chất khoáng như magnesium và sắt. Mật đường được dùng để nuôi gia súc, để cất rượu cồn ethyl alcohol, hoặc để làm bánh.

Sirô bắp hay High Fructose Corn Syrup (HCFS): Đây là một loại đường nhân tạo được chế biến công nghiệp. Sirô bắp được sử dụng rất rộng rãi trong công nghệ biến chế thực phẩm.

Sirô cây phong (maple syrup): Đây là sirô “Quốc hồn Quốc túy của đất nước Canada”. Nhựa cây phong được trích lấy khoảng tháng ba khi bớt tuyết và trời bắt đầu hơi ấm áp, đến cuối tháng tư lúc cây đâm chồi thì ngưng hứng nhựa. Bốn mươi lít nhựa cây phong đem nấu cô đặc thu được 1 lít sirô.

Mật ong: rất nhiều loại khác nhau. Nói chung mật ong chứa nhiều đường fructose 38%, dextrose 31%, sucrose 1 %, nước 17 %, và các loại vitamin.

Đường nghịch chuyển (invert sugar): có được qua phương pháp làm thủy phân sucrose ra đường glucose và đường fructose với 1 tỷ lệ bằng nhau. Đường nghịch chuyển ngọt hơn đường cát, và thường được dùng để làm chậm lại hiện tượng kết tinh (thí dụ trong các lọ mứt) cũng như để giữ độ ẩm lâu hơn, nhất là đối với các loại bánh ngọt có chứa rất ít chất béo, nhờ vậy sản phẩm sẽ lâu khô và có vẻ tươi mới.

Tại Việt Nam, ngoài những loại đường thông thường như vừa kể trên, có nhiều loại đường khác nữa là: đường thẻ, đường móng trâu, đường chảy dùng để nấu chè hoặc kho cá vì nó rẻ tiền. Đường xắc, dùng làm nước mắm đường. Ở vùng Tân Châu, Châu Đốc thì có đường thốt nốt, đường phèn…


Đường đơn hay đường hấp thụ nhanh

Đây là đường theo nghĩa thông thường mà chúng ta hiểu vv… Những chất tạo vị ngọt này được thấy trong bánh, kẹo, chè, chocola hoặc trong các loại nước ngọt Pepsi, Coca, soda, v.v. Đường mía (saccharose), đường trái cây (fructose), đường sữa (lactose) là những thí dụ điển hình.


Trong ruột, đường đơn chuyển thành glucose và được hấp thụ vào máu một cách rất nhanh chóng. Khi đường huyết tăng, lập tức tụy tạng sẽ tiết ra insulin để giúp tế bào hấp thụ glucose vào, đồng thời kéo đường huyết xuống mức bình thường.


Đường phức hay đường hấp thụ chậm

Vị hơi ngọt, gồm có bột đường (tinh bột) và các chất xơ. Tinh bột được thấy trong bánh mì, khoai tây, cơm, gạo, ngũ cốc, và trong các loại mỳ (pasta). Chất xơ có nhiều trong rau, củ, hoa quả, hạt cũng như trong các loại ngũ cốc làm từ hạt thô (whole grain)…


Đường phức cần sự tác động của một số enzymes để chuyển ra thành glucose rồi mới được hấp thụ vào máu, do vậy đường huyết tăng lên chậm hơn so với trường hợp đường đơn. Đường phức rất cần cho các hoạt động biến dưỡng của cơ thể. Đường đơn và đường phức không thể thay thế lẫn nhau được.


Ăn nhiều đường quá có hại sức khỏe không?

Đường đơn và đường phức đều tạo ra năng lượng. Trung bình một gram đường cho ra 4 Calo. Năng lượng dư thừa sẽ được dự trữ dưới dạng glycogen và mỡ. Ăn ngọt thường xuyên quá, mập ra cũng dễ hiểu mà thôi. Tình trạng béo phì dễ dẫn đến các bệnh tim mạch, tăng áp huyết, và tiểu đường. Ngoài ra việc ăn nhiều đường, kể cả đường thiên nhiên như đường từ trái cây và mật ong cũng có thể đưa đến tình trạng hư răng nếu không chịu súc miệng đánh răng kỹ lưỡng. Ăn nhiều bánh kẹo ngọt cũng có thể làm chất triglyceride (1 loại mỡ xấu ) trong máu gia tăng.

Năm 1998, trên thế giới có khoảng 135 triệu người mắc bệnh tiểu đường (diabetes). Thực phẩm quá dồi dào đường cũng như quá nhiều mỡ dầu chất béo, cộng thêm việc thiếu vận động là một vài trong những nhân tố dẫn đến tình trạng béo phì, bệnh tim mạch và bệnh tiểu đường. Lối sống vội vã, ăn nhiều thực phẩm chế biến sẵn hay đồ ăn nhanh là những nguyên nhân quan trọng cho sự phát triển nhanh của những căn bệnh ở trên.


Người bị bệnh tiểu đường có thể dùng đường được không?

Theo l’Association Canadienne du Diabète , thì họ vẫn có thể ăn ngọt được, nhưng phải ăn một cách điều độ chừng mực và vừa phải thôi. Họ cũng có thể thay thế đường bằng cách ăn trái cây, rau củ, hoặc các sản phẩm sữa. Trong một ngày họ có thể ăn 10% Calo từ các thức ăn ngọt. Trên đây là những chỉ dẫn chung chung mà thôi. Bệnh mỗi người mỗi khác, nên chỉ có bác sĩ điều trị mới có quyền quyết định.


Chỉ số đường huyết (Glycaemic index, GI) là gì?

GI do giáo sư David Jenkin, Canada nêu ra đầu tiên vào những năm 80. Ý niệm này dần dần đã thay thế ý niệm đường đơn và đường phức ngày nay đã lỗi thời. Chỉ số đường huyết là vận tốc chuyển hóa của 1 carbohydrate ra thành glucose để được hấp thụ vào máu.

Một thức ăn có GI càng cao thì đường huyết càng tăng nhanh. Vì vậy các nhà dinh dưỡng khuyên ta nên dùng những thức ăn nào có GI thấp để ngăn ngừa béo phì, bị bệnh tim mạch và tiểu đường. Trong thực tế, chúng ta thường pha trộn lẫn lộn các loại thức ăn có GI khác nhau trong các bữa ăn hàng ngày. Nhìn chung các loại đường phức tạp như ngũ cốc, cơm gạo, bánh mì, mỳ bún miến phở, spaghetti, và các loại rau xanh là những thực phẩm chứa nhiều dưỡng chất và chất xơ. Đối với những loại carbohydrate này, đường huyết tăng chậm hơn các loại đường đơn quá tinh khiết như đường cát trắng chẳng hạn. Tuy vậy cũng có một vài ngoại lệ, một số chất đường phức tạp như gạo trắng, bắp, khoai tây lại có GI cao hơn một số đường đơn giản.

GI cũng có thể thay đổi tùy theo nhiều yếu tố khác nhau như : kích thước các phân tử tạo nên sản phẩm, chẳng hạn như ngũ cốc càng nhuyễn, càng tinh khiết thì có GI càng cao, tùy theo cơ cấu sinh hóa (thí dụ gạo Basmati chứa nhiều đường amylose nên có GI thấp hơn gạo trắng hạt dài, là thứ gạo chúng ta ăn hằng ngày), tùy theo cách biến chế nấu nướng, như khoai tây nấu chín trong nồi có GI thấp hơn khoai tây đút lò, bột khoai tây có GI cao hơn GI khoai tây nguyên củ, cà rốt tươi có GI thấp hơn GI của cà rốt nấu chín v.v.

Trong lĩnh vực thể thao, GI rất đáng được các vận động viên quan tâm. Đối với các vận động viên, hôm trước ngày thi đấu, nên ăn những loại thực phẩm có GI thấp và trung bình, như mỳ, spaghetti, chuối, sữa chua để dự trữ năng lượng… Ngày thi đấu thì dùng những thức ăn dễ tiêu, có GI cao như các thỏi bánh kẹo ngọt có nhiều đường và vitamin. Liền ngay sau khi kết thúc cuộc thi đấu nên ăn những món có GI cao để bù đắp lại nhanh chóng năng lượng tiêu hao.


Thức ăn chuẩn là Glucose có GI = 100

Thức ăn có GI thấp hơn 55: Đậu nành, đậu phộng (15), đậu xanh (30), đậu trắng (38), đậu đỏ (40), sữa (30), sữa chua tinh khiết (35), cam (40), táo (39), bột lúa mạch (50), bún (35), gạo Basmati có nhiều amylose (50), cà rốt tươi (35), fructose hay đường trái cây (20), gạo lức, đậu petit pois, khoai lang, bánh mì multigrain, rau cải xanh, cà chua, cà tím, ớt xanh, hành, tỏi, nấm rơm (10), bưởi (22), cam (43), xoài (55), nho tươi (43).

Thức ăn có GI trung bình 56-69: càrem (59), nước cam lon (65), chuối (62), đu đủ (60), bánh mỳ ngũ cốc nguyên hạt (69), trái kiwi (58), khoai mỡ (51), đường cát sucrose, saccharose (65), thơm hay dứa (66).

Thức ăn có GI cao trên 70: cà rốt nấu chín (85), cơm trắng gạo hạt dài (72), các loại ngũ cốc, bột ngô (80), mật ong (90), Pepsi Coca (70), bia (110 ), khoai tây chiên hay khoai đút lò (95), khoai tây nấu chín (70), dưa hấu (72) , bí (75), bánh biscuit khô cracker (78), bánh mì baguette (95).

Ghi chú : chỉ số ở trên áp dụng cho các nguyên liệu nguyên chất, không thêm các loại phụ gia thực phẩm hay chất bảo quản, và cũng là chỉ số có độ chính xác một cách tương đối.


Đường hóa học và các chất thay thế đường

Đây là những chất có vị ngọt nhưng tạo ra rất ít calories. Người ta chia chúng ra làm 2 nhóm :


1. Nhóm có tính dinh dưỡng: Xylitol, Sorbitol và Mannitol. Chúng có vị ngọt nhưng lại có thêm tính nhuận trường nửa, ăn trên 30g/ ngày có thể bị tiêu chảy. Mỗi gram của các chất này chỉ cho ra 2 Calo, trong khi đường cát cho ra 4 calo. Các loại đường này không phổ biến lắm, chỉ thấy được sử dụng trong một số sản phẩm, chẳng hạn như trong kẹo chewing gum.


2. Nhóm không có tính dinh dưỡng: Cyclamate, Saccharin, Aspartame, Sucralose. Những chất này không tạo ra năng lượng, nhưng lại có vị ngọt gấp cả trăm lần đường cát. Chúng thường được đựng trong các bao nho nhỏ màu xanh, vàng để chúng ta bỏ vào café. Kỹ nghệ thực phẩm cũng sử dụng các loại đường hóa học này để tạo vị ngọt cho các loại sản phẩm ít năng lượng và các thực phẩm dành cho người ăn kiêng (diet). Thông dụng nhất là chất aspartame mà chúng ta thấy trong các thức ăn thức uống diet.

Các nhà dinh dưỡng đều đồng ý là các loại đường này có thể thay thế đường cát, nhưng không thể xem chúng là một giải pháp thỏa đáng để giúp ta có một hàm răng tốt, để giảm cân, hoặc để kềm hãm bệnh tiểu đường.


Cần nên đọc kỹ nhãn hiệu

Thông thường trên mổi loại thực phẩm sản xuất theo lối công nghiệp đều có liệt kê bản nguyên liệu (ingredients) sử dụng. Các chất này đều được xếp theo thứ tự quan trọng từ nhiều tới ít. Thường thì các danh từ tận cùng bằng chữ OSE là đường, như sucrose, fructose, dextrose, saccharose, maltose…


Khuyến cáo của cơ quan Liên Hiệp Quốc

Tổ chức Y tế Thế Giới (WHO) và Cơ Quan Lương Nông Quốc Tế (FAO) vừa phối hợp nghiên cứu và nhất trí khuyến cáo mọi người nên cắt giảm số Calories do đường mang vào xuống dưới mức 10%. Nói một cách dễ hiểu, nếu tổng số nhu cầu của một người là 2000 Calories/ngày, thì Calories do đường tinh khiết tạo nên phải thấp hơn 200. Được biết, 1g đường cho 4 Calories, 1 muỗng café đường có khoảng 16 Calories và 1 lon Coke chứa khoảng 9 muỗng đường tương đương với 145 Calories.

Mục đích của Cơ Quan Liên Hiệp Quốc là nhằm giúp ngăn chặn phần nào các loại bệnh mạn tính cũng như các bệnh về tim mạch, bệnh béo phì, bệnh tiểu đường và một vài loại ung thư. Để duy trì một sức khỏe tốt, chúng ta cần theo đuổi một chế độ dinh dưỡng ít dầu mỡ, ít đường, ít muối, không được dùng quá 2400 mg sodium hay 5 g muối, tương đương với 1 muỗng café muối ăn trong một ngày. Đồng thời cần phải ăn nhiều rau củ, trái cây tươi và nên vận động, tập thể dục thường xuyên.

Chắc chắn là khuyến cáo này không làm hài lòng kỹ nghệ bánh kẹo và kỹ nghệ nước ngọt rồi. Một tài liệu khảo cứu mới vừa được phổ biến trong tạp chí JAMA, August 2004 cũng đưa kết luận là các loại nước ngọt như Coke, Pepsi, Soda… vì chứa quá nhiều đường nên là một trong nhiều nguyên nhân quan trọng làm gia tăng sự xuất hiện của bệnh tiểu đường tuýp 2.


Kết luận

Thời đại nào, xã hội nào cũng thế, thức ăn ngọt vẫn dễ hấp dẩn mọi người. Tại Canada, từ 1986 đến 1996, các sản phẩm ngọt đã tăng vọt lên hơn 102%, trong số này nước ngọt tăng hơn 5%. Số người bị béo phì tăng lên một cách đáng ngại: 25% ở trẻ em và 50% ở người lớn.

Công ty Coca Cola và Pepsi Cola không ngừng tìm mọi cách để xâm chiếm thị trường, và khai thác thị hiếu hảo ngọt của dân chúng, đặc biệt là giới trẻ em, sinh viên học sinh. Các nhà dinh dưỡng thường xếp các loại thức ăn thức uống bán trong máy (bánh, kẹo, chip, chocolat, Coca Pepsi…) vào nhóm tạp phẩm (junk food) hay còn gọi là thức ăn rác, không bổ dưỡng gì hết vì chứa nhiều Calorie rỗng (empty calorie), nhiều đường, nhiều caffeine, nhiều gaz, và chất hóa học, nhưng lại không có hoặc có rất ít vitamins.